Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Cương lĩnh năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)


Trải qua 45 năm lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến cứu nước với những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước đã được hoàn toàn độc lập, thống nhất. Những năm 1930–1954, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là định hướng phát triển. Từ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện trên phạm vi miền Bắc. Tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975) và trên cả nước (1975 - 1986) đã đạt được những thành tựu quan trọng, tỏ rõ tính ưu việt và sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ những khuyết điểm và hạn chế trên nhiều mặt, nhất là về chính sách và cơ chế quản lý kinh tế. Bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật khách quan, quan liêu, không nắm vững thực tiễn đất nước và cả chủ nghĩa giáo điều là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979. Đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng tạo tiền đề cho sự phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân trở thành yêu cầu bức thiết và mệnh lệnh của cuộc sống.
Toàn Đảng từ Trung ương đến các cấp ủy địa phương phát huy quyền làm chủ, trí tuệ và sáng kiến của nhân dân đã quyết tâm khảo nghiệm, từng bước tìm con đường đổi mới. Đó là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới nhận thức và tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ với tổng kết thực tiễn để đi đến đường lối đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) - đại hội có giá trị bước ngoặt lịch sử đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển có hiệu quả theo đường lối đổi mới.
Hơn một phần tư thế kỷ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển đường lối, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội VII (tháng 6-1991) và bổ sung, phát triển tại Đại hội XI (tháng l-2011). Với đường lối đổi mới và Cương lĩnh đúng đắn, cùng hoạt động thực tiễn sôi động, phong phú, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu đó là nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn.
Sáng tỏ về mục tiêu và mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội là sự giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công, tạo dựng một xã hội thật sự dân chủ, tự do vì hạnh phúc của nhân dân, của con người. Con người là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội phụng sự và cũng chính là chủ thể, lực lượng quyết định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình"1.
Khi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội được đặt ra ở miền Bắc, năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh mục tiêu: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh"2. Người nhiều lần nhắc lại quan điểm về chủ nghĩa xã hội là làm cho nhân dân được tự do, ấm no, sung sướng, hạnh phúc, có nhà ở, được học hành, ốm đau được chữa bệnh, già yếu được chăm sóc. Người khẳng định: "Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa"3.
Thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Cương lĩnh đến hành động, Đảng ta luôn đặt mục tiêu hàng đầu là vì lợi ích, cuộc sống của nhân dân, của mọi người. Quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng coi trọng lợi ích kinh tế chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân, coi lợi ích đó là mục tiêu và động lực cho sự phát triển. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước từ xóa đói, giảm nghèo đến khuyến khích làm giàu chính đáng, từ chính sách kinh tế đến chính sách xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục... đều vì cuộc sống tốt đẹp của nhân dân, vì sự phát triển của con người.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 do Đại hội XI của Đảng đề ra đã nêu rõ 5 quan điểm phát triển, trong đó nhấn mạnh quan điểm: "Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển"4. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng thứ nhất là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ. Đặc trưng thứ năm: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục tiêu vì nhân dân, vì con người là nội dung cốt yếu nhất của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các đặc trưng khác là điều kiện cần thiết để đạt mục tiêu cao cả đó.
Các đặc trưng về chế độ kinh tế (đặc trưng thứ ba), về văn hóa (đặc trưng thứ tư), về bình đẳng, đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (đặc trưng thứ sáu), về thiết chế nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo (đặc trưng thứ bảy), về bản chất hòa bình, hữu nghị của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (đặc trưng thứ tám) là những điều kiện căn bản để thực hiện một xã hội mới hiện thực, tốt đẹp. Các đặc trưng đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới khi tạo dựng một cấu trúc, một mô hình cả trong nhận thức và thực tiễn. Xét trên tổng thể, 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà Đại hội XI xác định đã đặt ra và xử lý các mối quan hệ giữa mục tiêu và điều kiện bảo đảm thực hiện mục tiêu đó, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa chế độ kinh tế với thiết chế chính trị (bao gồm nhà nước pháp quyền, quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ), giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữa dân tộc và quốc tế, bao trùm là mối quan hệ giữa nền tảng kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc"5. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ hơn về những nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu lại trải qua chiến tranh giải phóng lâu dài nên cần được nhận thức và vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước. Từ những điều kiện như thế, khi miền Bắc mới bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm: "chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần"6 "tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều"7. Người đặt vấn đề: chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta"8.
Những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được Đảng chú trọng tổng kết từ thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Năm 1970, Đảng đề ra nội dung của bước đi ban đầu là tích lũy vốn cho công nghiệp hóa và cải thiện đời sống nhân dân, xử lý đúng đắn quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) xác định những nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, sửa chữa những khuyết điểm về chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Quá trình tìm đường để đi đến hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội VI (tháng 12-1986) là quá trình đổi mới tư duy lý luận kết hợp với khảo nghiệm thực tiễn để nhận thức rõ những đặc trưng và quy luật khách quan của thời kỳ quá độ. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam, bài học từ sự biến động ở các nước Đông Âu và Liên Xô càng đòi hỏi Đảng ta phải chú trọng tổng kết thực tiễn, nắm vững đặc điểm của Việt Nam, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh được bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng đã phản ánh quá trình phát triển nhận thức đó.
Trong thời kỳ quá độ cần nhận thức đúng đắn vai trò của hệ thống chính trị. C.Mác từng nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp vô sản và một hình thức nhà nước đã tìm thấy qua bài học của Công xã Pa-ri năm 1871. V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Mười, thiết lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Nga năm 1917. Nhà nước đó do Đảng Cộng sản lãnh đạo và trở nên tuyệt đối cần thiết để tổ chức toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải tạo và chuyển dần nền kinh tế theo con đường của chủ nghĩa xã hội. V.I.Lê-nin nhấn mạnh: "danh từ nước Cộng hòa xô-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là Chính quyền xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa"9.
Ở Việt Nam, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố và phát triển qua các thời kỳ tiến hành cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị không ngừng được hoàn thiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm sáng tỏ vai trò của hệ thống chính trị và của Đảng. Cương lĩnh khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực"10. Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị nhằm thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo"11. Cương lĩnh xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Cương lĩnh nêu rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản"12. Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị và lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, để lãnh đạo xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và năng lực tư duy; không ngừng bổ sung, phát triển và bảo đảm tính đúng đắn hiện thực của Cương lĩnh, đường lối, phòng và chống nguy cơ sai lầm về đường lối; tăng cường sức mạnh tổ chức kỷ luật; đổi mới phương thức lãnh đạo, gắn bó mật thiết với nhân dân; rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chống bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ đảng viên.
Đảng đã nhận thức rõ hơn đặc trưng về chế độ kinh tế của thời kỳ quá độ, khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. "Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"13. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển (thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường tiên tệ tín dụng, thị trường bảo hiểm, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ). Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với xây dựng, phát triển kinh tế tri thức.
Xây dựng  chủ nghĩa xã hội cần nhận thức đúng đắn những vấn đề về văn hóa, xã hội. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển... Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển"14. Đại hội XI nhấn mạnh: "Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân.trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"15. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. "Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội"16, "Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước"17. Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, phụ nữ. Chú trọng xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác, có chính sách đúng đắn với đồng bào định cư ở nước ngoài.
Về khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Luận cương tháng 10-1930 đã xác định cách mạng nước ta có thể bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản, tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nêu rõ: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"18. Thời kỳ quá độ là lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Đại hội XI khẳng định đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen"19. Cần phải phát huy tối đa những thuận lợi, đẩy lùi những nguy cơ, thách thức để phát triển nhanh và bền vững.
Cần nhận thức và thực hiện có hiệu quả 8 phương hướng cơ bản được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, "phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí"20.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới, những vấn đề thực tiễn và lý luận trên đây sẽ ngày càng sáng tỏ hơn, khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Bác Hồ - sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930  với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giải phóng dân tộc, giải phóng con người, hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh


“Cái mà tôi cần nhất trên đời là:
Đồng bào tôi được tự do Tổ quốc tôi được độc lập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như vậy và Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho sự giản dị vĩ đại chân lý ấy. Đó là điểm xuất phát của một quá trình nhận thức, là tiêu chuẩn lựa chọn một học thuyết, là con đường tranh đấu, là hạt nhân chi phối các hoạt động lý luận và thực tiễn, là mục tiêu phấn đấu đồng thời cũng là giá trị đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh.


Nguồn: bachovoihue.violet.vn
Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân tha thiết với khát vọng giải phóng dân tộc và con người Việt Nam. Nguồn lực tinh thần là chủ nghĩa yêu nước – nhân văn ấy được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, lao động và sáng tạo, bảo tồn và phát triển đã tạo nên truyền thống kép: yêu nước - thương dân, thương dân – yêu nước của dân tộc ta. Truyền thống đó thể hiện mối quan hệ hữu cơ, thống nhất về lợi ích giữa Dân tộc với Con người, làm  cho con người Việt Nam gắn bó chặt chẽ với cộng đồng dân tộc trong sinh tồn và phát triển khi luôn phải đối diện với thiên nhiên nghiệt ngã và các thế lực xâm lược hung tàn. Chính vì thế, mối quan hệ tương tác Con người – Dân tộc, Tổ quốc – Đồng bào, Nước – Dân trở thành một tiêu chí đạo đức, văn hóa Việt Nam. Những giá trị đó được kế thừa và phát triển qua mọi thế hệ, tạo dựng nên sức mạnh, hun đúc thành bản lĩnh và ý chí, duy trì sự sinh tồn, nuôi dưỡng nguồn lực tinh thần cho sự phát triển của dân tộc và con người Việt Nam. Sự hòa quyện thành giá trị tinh thần ấy, vì thế, thực sự trở thành nguồn động lực phát triển của dân tộc, nó xuyên qua toàn bộ lịch sử, bao trùm lên các lĩnh vực của đời sống xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam trong quá trình tiến hóa của mình.


Với hành trang đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc tìm tòi lịch sử và trong cuộc hành trình ra thế giới để xem họ làm thế nào nhằm trở về “giúp đồng bào chúng ta”, đã mở rộng nhận thức của Người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân”, không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động của các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là những nạn nhân của một kẻ giết người: chủ nghĩa tư bản quốc tế”. Người nhận xét: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ nhận thức chung đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi giải phóng dân tộc và giải phóng con người không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà là vấn đề toàn cầu: “Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước khác tôn giáo... Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta, chúng ta không cô độc, vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ”. Có thể nói, hiểu biết và tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc và con người đã từ quốc gia mở rộng ra thế giới, từ dân tộc tới nhân loại. Điều này đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho sự lựa chọn con đường cách mạng của Người trước thời đại mới: con đường đó không chỉ cho Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bị bóc lột trên thế giới.

Với những nhận thức mới mang tính quốc tế, nhân loại về vấn đề dân tộc - con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm hiểu nhiều học thuyết và xem xét thực tiễn các hình mẫu cách mạng điển hình ở Mỹ, Anh và Pháp và nhận thấy trên thực tế tính chất “không đến nơi” về giải phóng dân tộc và con người của các cuộc cách mạng này. Do đó, Người hướng tới nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười Nga và xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”, đồng thời khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.

Như thế, với toàn bộ sức mạnh của truyền thống là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn và vì vấn đề giải phóng dân tộc và con người Việt Nam để đi ra thế giới, nắm bắt được nhu cầu chung của nhân loại và hướng theo dòng tiến hóa của thời đại, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc, giải phóng con người hướng tới chủ nghĩa xã hội mang đầy đủ các yếu tố Dân tộc - Nhân loại - Thời đại. Sự thống nhất đó đã khẳng định ngay từ đầu những nhân tố cơ bản cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cho thấy con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người hướng tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là ý muốn chủ quan nào mà là đòi hỏi nội tại của dân tộc Việt Nam, là nhu cầu chung của các dân tộc, của nhân dân lao động bị áp bức trên thế giới và thuận theo hướng tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới sau Cách mạng tháng Mười Nga. Con đường cách mạng Việt Nam, vì thế, hội tụ đủ các yếu tố Thiên thời -  Địa lợi - Nhân hòa. Điều đó giải thích tại sao trong khi các học thuyết khác không có cơ hội bám rễ ở Việt Nam thì con đường cách mạng vô sản được Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá lại được nhân dân Việt Nam tiếp nhận nhanh chóng, cách mạng ở Việt Nam phát triển vững chắc và luôn được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các dân tộc và nhân dân lao động toàn thế giới. Điều đó cũng lý giải vai trò dẫn dắt dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được chính những nhà ái quốc như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu thừa nhận và gửi gắm kỳ vọng.

Tất cả những vấn đề trên không chỉ là cơ sở, là tiêu chí chọn lựa và quyết định con đường cách mạng hướng tới mục tiêu giải phóng Dân tộc – Con người theo chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn giúp Người giải quyết một cách sáng tạo trong xây dựng lý luận cách mạng đến chỉ đạo hoạt động thực tiễn: từ xây dựng đường lối, hoạch định chính sách, tổ chức lực lượng, xác định phương pháp, bước đi của cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong nhiệm vụ phục hưng đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề căn bản đó đều phù hợp với điều kiện trong nước và sự vận động không ngừng của quan hệ quốc tế.

Sự sáng tạo được thể hiện bắt đầu từ việc Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào yêu nước và phong trào của giai cấp công nhân để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắtĐiều lệ vắn tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chiến lược là xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam nhưng Người cũng cụ thể hóa mục tiêu là làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, giải phóng công nông khỏi áp bức của đế quốc và phong kiến, thiết lập nền dân chủ mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người và tạo ra những điều kiện phát triển mới vì lợi ích của dân tộc và con người Việt Nam.

Vấn đề giải phóng dân tộc và con người còn được thể hiện sâu sắc trong tổ chức lực lượng cách mạng và trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (1941) đã quyết định thay đổi chiến lược với việc đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, nhưng trong Chương trình Việt minh vẫn có đầy đủ mục tiêu “Việt Nam độc lập” và về con người là “làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”, là thể hiện rõ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc - con người trong cách mạng dân tộc dân chủ của nước ta. Khơi dậy nguồn lực mạnh mẽ nhất của dân tộc - chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và lợi ích của các giai tầng, của mỗi con người là thống nhất với lợi ích dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong việc tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam tạo nên lực lượng cách mạng vô cùng to lớn làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thiết lập nên nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa với tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Tiêu chí vì lợi ích dân tộc và con người Việt Nam đó cũng là tiêu chí của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và con người được khẳng định trước toàn thế giới qua Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người khởi thảo. Thừa nhận những “lời bất hủ” trong Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776) và “những lẽ phải không thể chối cãi được” của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do”. Nâng quyền tự nhiên của con người lên quyền dân tộc và gắn chặt chẽ quyền con người với quyền dân tộc, với Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho một trật tự và pháp lý quốc tế mới về quyền con người, quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia – dân tộc. Cần phải nhấn mạnh rằng: đây là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì 15 năm sau khi Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được công bố, tới cuối năm 1960, khi mà vấn đề độc lập cho các dân tộc thuộc địa không thể không được đặt ra sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Liên Hiệp Quốc mới có Tuyên ngôn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa và phải 10 năm sau đó nữa (1970) Liên Hiệp Quốc mới có nghị quyết để thi hành Tuyên ngôn năm 1960.

Tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc đã được thực thi ngay trong những ngày đầu tiên của chế độ mới. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà cứ để dân chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập  khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Bởi vậy, chỉ một ngày sau khi tuyên bố nước nhà độc lập, ngày 3.9.1945, Người đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách để giải quyết ngay các vấn đề quan hệ tới vận mệnh của dân tộc và sự sinh tồn của mỗi người Việt Nam. Cùng với việc xây dựng kế hoạch lâu dài để kiến thiết nước nhà, Người đã chỉ thị cho các cấp ngay từ bước đầu “phải giữ đúng phương châm” là  “gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”... Người khẳng định: “chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích của chúng ta là đi đến 4 điều đó. Đi đến để dân ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”. Từng bước thực hiện tiêu chí cho con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gia tăng gấp bội sức mạnh đoàn kết toàn dân để chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, đưa Tổ quốc Việt Nam vào điểm xuất phát của kỷ nguyên Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

Chủ nghĩa yêu nước – nhân văn đó đã được phát huy thành những phong trào toàn dân thi đua chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và tạo nên chỗ dựa vững chắc nhất trong lòng dân tộc để Chủ tịch Hồ Chí Minh thực thi thành công các sách lược nhằm bảo tồn chế độ mới và các thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Thành công đó còn được phát huy trong cuộc Kháng chiến – Kiến quốc, trong sự nghiệp chiến đấu vì chân lý Không có gì quý hơn độc lập, tự do và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như thế, vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là mục tiêu, là tiêu chí trong xây dựng lực lượng cách mạng, là cơ sở để vạch ra và thực thi các phương pháp cách mạng đặng đưa dân tộc Việt Nam tới các mục tiêu giải phóng, là lý do cho sự ra đời và tồn tại của Nhà nước của dân, do dân, vì dân và trong tổ chức xã hội mới mà còn là động lực chủ yếu trong công cuộc giải phóng, phục hưng dân tộc hướng tới xã hội xã hội chủ nghĩa vì dân tộc, vì con người Việt Nam.

Chúng ta đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề giải phóng Dân tộc và Con người qua cách trình bày của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, một xã hội vì dân tộc, vì con người trong khái niệm cặp đôi của nó. Người quan niệm: “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”, “là làm cho mọi người được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”. Chủ nghĩa xã hội là “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Những mục tiêu cụ thể trên đây được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát một cách súc tích và nhất quán khi Người khẳng định: “xã hội chủ nghĩa không có bóc lột và áp bức dân tộc”, “là một xã hội đảm bảo cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không nghĩ tới”.

Những mục tiêu trên đây thể hiện một cách tổng quát và chính xác tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội: độc lập dân tộc được bảo đảm bằng sự phát triển hùng cường của tổ quốc tự do với một xã hội ngày càng tăng tiến về điều kiện vật chất, tốt đẹp hơn về tinh thần, bảo đảm cho con người phát triển và có cuộc sống xứng đáng, vinh quang. Sự gắn bó chặt chẽ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là nội dung đầy đủ nhất của tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra cho chế độ mới. Đó là điểm chung để thống nhất dân tộc, là tiêu điểm đoàn kết toàn dân phấn đấu tiến tới thực hiện hoàn chỉnh những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vì lợi ích lâu dài của dân tộc và của mọi người Việt Nam. Thông qua tiêu chí chung và thực hiện từng bước lợi ích thiết thực đó, niềm tin của toàn dân vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa được tăng tối đa sức mạnh toàn dân để vượt qua khó khăn khi Tổ quốc phải đối diện trước bất kỳ một thử thách cam go nào trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Với mục tiêu lý tưởng nhưng rất hiện thực đó,  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy sức mạnh sẵn có, làm nảy nở những cái mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc, của mỗi con người trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Do đó, có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu vì dân tộc – con người của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự sáng tạo và thể hiện đúng bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập tới. Từ tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, ở từng giai đoạn lịch sử của cách mạng, các mục tiêu chiến lược lại được diễn đạt cụ thể sát hợp với tình hình, nhiệm vụ nhưng không tách rời tiêu chí vì Độc lập dân tộc, Tự do – Hạnh phúc cho con người của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và phú cường trong khẩu hiệu chiến lược của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám và Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh sau chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như được ghi lại trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là “điều mong muốn cuối cùng” của Người chính là mục tiêu không đổi thay của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Để tiến tới xã hội xã hội chủ nghĩa có đầy đủ các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm thực hiện được hoàn chỉnh tiêu chí của xã hội xã hội chủ nghĩa cần có thời gian và phải trải qua thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, ở những thời kỳ đầu, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã dần được thể hiện khi từng bước hình thành một chế độ chính trị dân chủ, một nền kinh tế hiện đại dựa trên cơ sở “gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân” và có sự “công bằng hợp lý” về mặt xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đó là sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong tất cả các lĩnh vực và tất cả đều phải xuất phát, phải dựa trên những đặc điểm, giá trị văn hóa Việt Nam, không bao giờ xa rời mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Mục tiêu đó không chỉ là tiêu chí của tương lai, nó phải được thể hiện từng bước trong thực tiễn để xây đắp nền tảng vật chất và tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa nên đồng thời mục tiêu đó là động lực chính thúc đẩy cách mạng sáng tạo ở nước ta. Như vậy, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ thấm đậm yếu tố vì Dân tộc và Con người mà còn hiện rõ các nhân tố cấu thành: Dân tộc – Nhân loại – Thời đại.

Từ thang giá trị truyền thống của chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam và vì muốn giải quyết triệt để vấn đề giải  phóng dân tộc và con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cho cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, Người đã giải quyết một cách sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con người trên cả phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn phù hợp với điều kiện Việt Nam và sự tiến hóa của nhân loại, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại. Chính vì vậy, Người đã khơi dậy được nguồn động lực mạnh mẽ nhất của dân tộc, huy động được tối đa sức mạnh của toàn dân và đã giành được sự ủng hộ vô cùng to lớn của nhân dân thế giới. Nhờ đó, sức mạnh trong nước kết hợp với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo nên thế và lực tổng hợp cực kỳ to lớn để Việt Nam đi tới mục tiêu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là thước đo, là hệ quy chiếu, là tiêu chuẩn của chân lý cho tất cả các hoạt động của chúng ta ngày nay. Bởi vậy, kiên trì con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là kiên trì mục tiêu giải phóng dân tộc gắn với triệt để giải phóng con người, là kiên trì mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho Dân tộc và Con người Việt Nam. Đó chính là giá trị vĩnh hằng của tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại ngày nay.

Lịch sử chính trị của nhân loại trong thế kỷ XX không có gì khác hơn là sự đấu tranh vì quyền cơ bản của dân tộc và con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người Việt Nam, của nhân loại xuyên qua lịch sử loài người và Người đã thành công trong việc giải quyết những nhiệm vụ vĩ đại ấy khi dựa trên nền tảng văn hóa của dân tộc và giá trị chung của nhân loại. Kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX cho thấy: ở nơi và thời điểm nào đó mà vấn đề giải phóng dân tộc và con người không được giải quyết đúng đắn, tự nó sẽ hạn chế, triệt tiêu động lực và thậm chí cả những thành quả cách mạng được xây đắp trong nhiều thập kỷ. Những thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới đều là những minh chứng làm sáng tỏ sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc và con người theo chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.

Kiên trì con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,  Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện thành công tiêu chí không thể thay đổi của Tổ quốc ta là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm chắc phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc – con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của dân tộc và những bước vận động, phát triển mới của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng nước ta trước tất cả các sự biến hiện nay và trong tương lai.


Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa;
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bắng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của nó, v.v.
Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng.
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người và niềm vui, hoà bình, hạnh phúc cho mọi người. Nghĩa là, chủ nghĩa xã hội hướng tới bảo đảm các giá trị làm người chân chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội mang đúng bản chất người cao quý.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần. Đây là cách diễn đạt Người thường dùng nhất.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới-chủ nghĩa xã hội-rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề hiện đại, Người vẫn đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá khứ, qua hiện tại, để hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.
Theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(1). Hay “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”(2). Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(3). Nhiều khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(4).
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người Việt Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi hàng loạt các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do. Quan niệm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm mác-xít khi nói về xã hội tương lai, với tư cách là một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người và đạt đến chiều sâu nhất, triệt để nhất.
Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(5). Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là:
Mục tiêu chính trị: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
Hồ Chí Minh xác định rõ dân chủ như một giá trị phổ biến mà loài người mong muốn và đến chế độ xã hội chủ nghĩa giá trị phổ quát này mới đạt đến mức độ hoàn bị nhất. Giá trị dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Người diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn chứa nhiều điều lớn lao, hệ trọng: dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặt khác, Người còn xác định dân chủ như một động lực của sự phát triển: thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó khăn; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển… Quan niệm này đặt nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong lý luận xây dựng Nhà nước, xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước.
Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể trên các quy mô khác nhau.
Mục tiêu văn hóa-xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu…
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định “phải xã hội chủ nghĩa về nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất…
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết về mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo người, “có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên đức phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”. Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung. Điều này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). 25 năm sau, quan niệm trên đây về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội XI của Đảng sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(6).
Nếu so sánh với quan niệm được V.I.Lênin trình bày trong “Nhà nước và cách mạng” về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, có thể thấy rằng có một gạch nối rất nhất quán giữa V.I.Lênin với Hồ Chí Minh, Cương lĩnh (1991) hay Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nói riêng, của chủ nghĩa cộng sản nói chung có thể được thể hiện ra ở rất nhiều thuộc tính, thêm nữa, phần lớn các thuộc tính ấy đều được nêu ra dưới dạng dự báo, cho nên việc liệt kê các thuộc tính ấy ở các tác giả khác nhau có những khác nhau, kể cả ở các tác gia kinh điển. Điều đó khiến cho nhu cầu tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ mục tiêu cơ bản của nó đang dần trở nên bức thiết hơn so với cách liệt kê các đặc trưng chế độ xã hội mà chúng ta xây dựng./.

Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam



1. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa.
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng trong mô hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.
2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1. Quan niệm về thời kỳ quá độ
Là thời kỳ đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, còn có điều kiện phục hồi trở lại. Cái mới thì mới ra đời chưa đủ thực lực chiến thắng hoàn toàn cái cũ.
Bản chất nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tính đan xen giữa cái cũ và cái mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính chất cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gay go, phức tạp, lâu dài nhắc nhở chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
*  Tính tất yếu khách quan
- Theo C.Mác, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Kiểu quá độ của C.Mác là quá độ về chính trị. Quá độ trực tiếp chỉ cần thay đổi kiến  trúc thượng tầng của giai cấp tư sản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là có ngay những điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-  Theo V.I. Lênin, về lý luận, không còn nghi ngờ gì nữa rằng giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa phải có một thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại và chủ nghĩa xã hội mới phát sinh.
Kiểu quá độ của V.I. Lênin là quá độ toàn diện, gián tiếp. Vì từ các nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội có xuất phát điểm thấp.
-  Đảng Cộng sản Việt Nam: Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội VI đã cụ thể hơn. Chia thời kỳ quá độ thành nhiều chặng đường, nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ; bắt đầu thời kỳ quá độ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới; nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền công nghiệp cho chủ nghĩa xã hội nhằm cải tạo nông nghiệp tức là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; độ dài thời kỳ quá độ tùy thuộc vào việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ; kết thúc thời kỳ quá độ khi xây dựng xong cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước ta có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Đến giữa thế kỷ XXI nước ta có nền công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Xung quanh vấn đề “bỏ qua”
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng bỏ qua phải có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến đi trước. Xung quanh vấn đề “bỏ qua” cần nhận thức đúng đắn và toàn diện đó là:
Bỏ qua cái gì? Bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua như thế nào? Bỏ qua không có nghĩa là phủ định sạch trơn mà phải có tính kế thừa nghĩa là phải kế thừa sự phát triển khoa học công nghệ; lực lượng sản xuất; khoa học quản lý; cơ sở hạ tầng vì đây là những thành tựu của nhân loại giai cấp tư sản đã sử dụng trước.
Bỏ qua được không? Từ thực tế tình hình trên cho phép chúng ta khẳng định Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là đi vào giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thế giới và tình hình trong nước.
* Về bối cảnh thế giới
Xu thế toàn cầu hóa giúp cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau để chuyển giao công nghệ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư, tăng cường xuất nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ, tăng nguồn vốn, nguồn dự trữ quốc gia.
Vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế tri thức biểu hiện trong từng sản phẩm, hàm lượng trí tuệ cao với những công nghệ hiện đại như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới giúp cho các nước đang phát triển ứng dụng trong quá trình rút ngắn dần khoảng cách giữa các quốc gia, dân tộc.
Thời đại ngày nay vẫn là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
* Tình hình trong nước
Có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có đường lối đúng; ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng.
Có đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng của dân tộc, xứng đáng là đày tớ của nhân dân.
Nhân dân Việt Nam đồng thuận một lòng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta có lợi thế so sánh về vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên. Đặc biệt là nguồn nhân lực trí tuệ cao thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ.
2.2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Xuất phát điểm lên chủ nghĩa xã hội còn quá thấp, từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chính với lực lượng sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất manh mún, đại đa số là nông dân mang nặng tư tưởng nho giáo, phong kiến, tiểu nông.
Hậu quả chiến tranh nặng nề, vừa khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện chính sách xã hội.
Các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp nhất là tệ quan liêu, tham nhũng làm mất lòng tin của dân đối với chế độ xã hội mới.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức là nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Chủ nghĩa đế quốc và âm mưu diễn biến hòa bình hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội với các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc...là lực cản cho quá trình phát triển của dân tộc.
Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền: Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc vừa bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam... Đảng ta xác định rõ: Đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những thành tựu của miền Bắc trong những năm chống Mỹ, cứu nước đã thực sự xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam và có vai trò quyết định nhất đến toàn bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I.Lênin đã nêu ra về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông”, Đảng ta và nhân dân ta đã có những thành quả bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian 1975-1985, chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó có biểu hiện chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: Đó là quá chú trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức, thực hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao cấp của Nhà nước; nhận thức chưa đúng quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế đan xen nhau,...trong thời kỳ quá độ, do đó đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài, nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai trở nên không có chủ cụ thể...Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế - xã hội đã lâm vào trì trệ, khủng hoảng...
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế. Đổi mới toàn diện nhưng có trọng điểm đúng: Trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống chính trị để phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định đó là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhận thức rõ hơn nữa: “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
2.3. Nội dung của thời kỳ quá độ ở nước ta
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa con đường tư bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh quyết liệt chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
2.4. Những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.
Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần.
Thứ ba, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất qua nhiều hình thức đa dạng về sở hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân; từng bước phát triển kinh tế tri thức một cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo.
Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của đất nước. Tiếp tục kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trí tuệ, đạo đức, lối sống, phong cách, có văn hoá, văn minh; có thể chất và đời sống thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn minh, phi đạo lý, đạo đức...trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng xã hội tán thành và phấn đấu vì mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với các nước, các tổ chức quốc tế.
Thứ sáu, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, gắn chặt kinh tế với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam theo phương châm: Phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt để Đảng ta luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng vai trò lãnh đạo xã hội trên mọi lĩnh vực trước những yêu cầu ngày càng cao hơn với những vận hội mới lẫn những thử thách mới.
Tóm lại, nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và triệt để về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi và khó khăn mà chúng ta với quyết tâm chính trị cao phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 25 năm qua với những thành tựu hết sức khả quan cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất định kết thúc thắng lợi.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết đồng thuận một lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới./.