Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

ĐÁP ÁN BÀI TẬP BÀI SỐ 2- TRIẾT HỌC MLN



CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI SỐ 2
 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CN DUY VẬT LỊCH SỬ
Trình bày nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất?

- Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kì nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động.
lượng sản xuất bao gồm: Người lao động và tư liệu sản xuất.
- Người lao động là người tham gia vào quá trình lao động.
Người lao động có hai yếu tố cơ bản là trí tuệ và sức lao động, nhờ có trí tuệ và sức lao động mà con người đã tìm ra tư liệu sản xuất của chính mình.
Trong mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết định. Người lao động quyết định tư liệu sản xuất của chính mình, chính tư duy duy của người lao động đã cải tiến tư liệu sản xuất của mình. Nhờ có tư duy của người lao động mà tư liệu sản xuất của con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Tư liệu sản xuất bao gồm: - công cụ lao động;
-         Đối tượng lao động.
-         Phương tiện lao đông.
Trong mối quan hệ giữa 3 yếu tố tư liệu sản xuất,  thì công cụ lao động đóng vai trò quyết định, công cụ lao động là lực lượng động nhất của lực lượng sản xuất.
- Công cụ lao động quyết định khả năng chinh phục tự nhiên của con người, công cụ lao động của con người càng phát triển con người càng thoát khỏi giới tự nhiên, càng không phải lệ thuộc vào giới tự nhiên.
- Công cụ lao động quyết định năng suất lao động mà năng suất lao động lại quyết định sự sống còn của một chế độ xã hội nhất định. Sự thay thế từ hình thái kinh tế xã hội sang hình thái kinh tế xã hội khác, xét cho đến cùng là sự thay thế của công cụ lao động, vì vậy Các Mác viết " Cái cối xay chạy bằng tay thì cho ra đời lãnh chúa phong kiến, cái cối xay chạy bằng hơi nước thì cho ra đời xã hội tư bản".
Ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, một phát minh khoa học được ứng dụng rất nhanh vào thực tiễn, khi ứng dụng và thực tiễn nó tạo ra lượng của cải vật chất lớn. Ngày nay các công nghệ khoa học phát triển rất mạnh đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học là những ngành mũi nhọn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
* Quan hệ sản xuất là nhưng mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất;
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất;
- Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong 3 mặt trên thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, nó đóng vai trò quyết định và chi phối quan hệ tổ chức quản lí, phân công lao động và quan hệ phân phối. Bởi vì nắm đựợc TLSX nghĩa là nắm được CCLĐ, ĐTLĐ, PTLĐ. Người nắm được yếu tố này thì có quyền phân công lao động,  quản lý lao động và phân phối sản phẩm lao động làm ra.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, có 2 hình thức sở hữu
+ Sở hữu tư nhân;
+ Sơ hữu tập thể.
Sở hữu tư nhân là tư liệu sản xuất tập trung trong tay một người hoặc một số ít người, nó là phạm trù lịch sử, nó được hình thành từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời. Sở hữu tư nhân là nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp, giữa giai cấp thống trị và những người bị trị.
Sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất  ra đời từ khi có xã hội nguyên thủy, hình thức cao nhất của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
-  Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt ,hai phương thức cơ bản của quá trình sản xuất ra của cải vật chất ;chúng không tồn tại độc lập tách rời nhau mà có mối liện hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thanh quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất.

* Lực lượng sản xuất, quyết định quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực không có một lực lượng sản xuất nào lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại cung không có một quan hệ sản xuất nào mà không có nội dung vật chất của nó.
Trong mọi quá trình của lực lượng sản xuất, cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp, quan hệ sản xuất lỗi thời hoặc đi trước lựuc lượng sản xuất đề kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống  nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Quy luật cơ bản nhất của quá trình vận động và phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển; Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất là cái tương đối ổn định, còn LLSX là cái thường xuayên biến đổi. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuấtờt chỗ phù hợpổtở thành không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển yêu cầu khách quan sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, lúc này để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng qua hệ sản xuất mới có nghĩa là sẽ có một phương thức sản xuất khác ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ.
* Sự tác động trở lại của QHSX
Lực lượng sản xuất thay đổi và quyết định đến quan hệ sản xuất nhưng bản thân quan hệ sản xuất cũng có sự độc lập tương đối của nó và tác động trở lại qua hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất mới quy định mục đích sản xuất ,tác động đến thái độ của người lao động trong qua trình lao động ,đến tổ chức phân công lao động xã hội. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc "tiên tiến " hơn trình độ lực lượng sản xuất một cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Ý nghĩa của phương pháp luận
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất: Vì vậy trong hoạt động thực tiễn phải đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Trong mối quan hệ giữa hai mặt của lực lượng sản xuất giữa người lao động  và tư liệu sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết định vì vậy muốn phát triển kinh tế thì việc đầu tiên phải ưu tên phát triển con người, lấy con người làm trung tâm. Chỉ có phát triển con người thì đất nước mới giàu mạnh. Muốn phát triển con người phải ưu tên phát triển giáo dục và y tế.
Cùng với việc phát triển con người là việc phát triển tư liệu sản xuất mà đặc biệt ưu tiên phát triển công cụ lao động, muốn phát triển được công cụ lao động thì phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ.  Phải tìm tòi cải tiến công nghệ mới chỉ có nâng cao phát triển cải tiến công nghệ thì hàng hóa của chúng ta mới đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Trong quá trình nhập khẩu công nghệ phải nhập khẩu các công nghệ hiện đại.
Nâng cấp các viện khoa học, phải có chính sách ưu tiên trong lĩnh vực phát triển khoa học công nghệ, phải cóa những giải thưởng xứng đáng cho các nhà khoa học, phải khẩn trương đưa các phát minh khoa học ứng dụng vào thực tiễn. Phải có chính sách cụ thể để phát triển nền kinh tế tri thứ- Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ sinh học.
Phải tìm ra những nguồn nguyên liệu mới thay thế những nguồn nguyên liệu đang bị cạn kiệt.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất bằng sự phù hợp.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc "tiên tiến " hơn trình độ lực lượng sản xuất một cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy chung ta chuyển đổi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong các thành phần kinh tế ấy có tư bản tư nhân và tư bản nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta chỉ có thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển chứ không được đốt cháy giai đoạn.
Phải chú ý thật kỹ từng khâu đoạn trong tổ chức, quản lý, phân công lao động cần phải thực hiện có quy trình, đúng luật hành chính, bởi vì nó tác động trực tiếp đến thái độ của người lao động.
Phải trả lương cho người lao động phù hợp với điều kiện sống và sinh hoạt, chỉ có như vậy người lao động mới cống hiến hết khả năng cho công việc

Trình bày mối quan hệ biện chứng cơ sơ hạ tầng kiến trúc thượng tầng.
- Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng
K/n: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm:
Quan hệ sản xuất thống trị (quan hệ sản xuất đương thời);
Quan hệ sản xuất tàn dư (quan hệ sản xuất của xã hội cũ);
Quan hệ sản xuất mầm mống (quan hệ sản xuất của xã hội tương lai).
- Mối quan hệ giữa các mặt của CSHT.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định tác động trở lại của đối với quan hệ sản xuất thống trị bằng cách thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
Kiến trúc thượng tầng
- K/N: Kiến trúc thượng tầng là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hệ tư tưởng và các thiết chế tương ứng của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Cấu trúc của kiến trúc Thượng tầng.
Hệ tư tưởng: bao gồm triết học, tôn giáo, văn học – nghệ thuật, văn hóa- đạo đức…
Các thiết chế tương ứng: bao gồm nhà nước, pháp luật, các tổ chức đoàn thể, đảng phái, các cơ quan bảo vệ pháp luật nhà nước.
Mối quan hệ giữa các mặt của KTTT.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp.
- Quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng.
Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét cho đến cùng là sự thay dổi của LLSX.
Mỗi yếu tố của cơ sở hạ tầng biến đổi cũng dẫn đến làm thay đổi những yéu tố của KTTT. (những quan hệ về kinh tế thay đổi tất yếu dẫn tới pháp luật, co cấu nhà nước, triế học, tôn giáo … cũng thay đổi theo.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối tác động trở lai với CSHT thông qua vai trò lãnh đạo của nhà nước.
Nhà nước đưa ra những quan điểm, đường lối đúng đắn thì xẽ đẩy mạnh các cơ cấu kinh tế phát triến, ngược lại nhà nước đưa ra quan điểm sai lầm sẽ dẫn tới làm suy thoái các cơ cấu kinh tế.
Các bộ phận của KTTT như triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật… cũng có sự tác động mạnh mẽ đến sự phát triẻn các cơ cấu kinh tế (sự tác động đó thong qua tư tưởng của người lao động).
Ý nghĩa phương pháp luận
CSHT quyết định KTTT vì vậy muốn đưa đất nước phát triển, khi vạch ra các đường lối chính sách trước hết phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế.
Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, nghãi là phải đẩt mạnh các quan hệ sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất cũ, quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tương lai.
Từ Đại hội VI của Đảng chúng ta đã chuyển kinh tế đất nước từ chế độ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
KTTT tác động trở lại với CSHT  thông qua vai trò lãnh đạo của nhà nước  vì vậy trong hoạt động thực tiẽn khi triển khai các đường lối, chính sách phải phù hợp, khoa học, phải coi trọng vai trò của chính trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong việc vận dụng vao các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hoá một mặt nào đó cung dẫn tới sai lầm.

Liên hệ với việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở VN hiện nay
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “Phải tập chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế”. Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ: ”Từ nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ: ”Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.


Vì sao sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
-Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên"2.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội
khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã
hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi
quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan
chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội
phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống
văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao;
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
-Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.

Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa học và cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản ánh chính xác những nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con người. Để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung” của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó khăn phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”(3).

Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và thuộc tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta nhận thức và vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”(4).

4. Kết luận

Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phân tích nội dung và ý nghĩa định nghĩa giai cấp của Lê-nin? 


Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. 



Như vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do: 

Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. 

Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội. 

Thứ ba, khác nhau về phương thức sản xuất và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội. 

Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất. Tập đoàn người nào nắm tư liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các tập đoàn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng. 

Trong các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị còn có những tầng lớp và giai cấp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hoá. Nhân tố chi phối sự phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ. 

Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. 

Nguồn gốc hình thành giai cấp: Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế. 

Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện. 

Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp. 

Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử. 

Kết cấu xã hội - giai cấp. Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế lẫn nhau trong lịch sử. Mỗi kiểu xã hội có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô nệ trong chế độ nô nệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại. 
Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số tầng lớp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội phong kiến), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất trong tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến). Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, đó là tầng lớp trí thức. 

Nguồn gốc hình thành giai cấp
Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
           Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện. 
           Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
           Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.ng xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
           Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện. 
           Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
           Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.

Thực chất của đấu tranh giai cấp ?
* Đấu tranh giai cấp?
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị tiến hành chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay giai cấp mình. Ngược lại, các giai cấp và tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt lao động mà còn bị áp bức về chính trị xã hội và tinh thần. Sự bất bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị phát triển cao. Sự bất bình đẳng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. V.I Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp: “là cuộc đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp: là cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản làm thuê chống lại giai cấp thống trị, bóc lột để giải phóng lao động, làm cho sản xuất phát triển.
* Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan: từ chính sự phát triển thường xuyên liên tục của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó ngày càng phát triển. Để lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển để sản xuất xã hội phát triển cần phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay vào đó là quan hệ sản xuất tiến bộ hơn.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về phương diện xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ cách mạng, đại diện cho phương thức sản xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Đó chính là mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản đối lập trong một phương thức, không thể điều hoà được vì lợi ích kinh tế cơ bản đối lập nhau (Hai mặt đối lập trong một sự vật tất yếu dẫn đến đấu tranh với nhau). Dưới góc độ chính trị - xã hội: giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách củng cố địa vị thống trị của mình, giai cấp bị trị luôn tìm mọi cách giải phóng mình. Đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Đấu tranh giai cấp là nói đến đấu tranh của tập đoàn này chống lại tập đoàn khác. Những cuộc đấu tranh lẻ tẻ của cá nhân thuộc giai cấp này chống cá nhân một giai cấp khác không được gọi là đấu tranh giai cấp. Ví dụ: cá nhân một công nhân đập phá máy móc, giết chủ tư sản, trốn khỏi nhà máy không được coi là đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển
Khẳng định như vậy vì:
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển mà đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển, qua đó thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển.
Mặt khác có thể thấy tồn tại xã hội cần có điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất có vai trò quyết định nhất. Trong phương thức sản xuất có lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội trong xã hội có giai cấp là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối lập giải quyết mâu thuẫn của phương thức sản xuất, qua đó làm cho xã hội có giai cấp phát triển.
Biểu hiện: Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội. Khi cách mạng xã hội nổ ra quan hệ sản xuất cũ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, phương thức sản xuất cũ mất đi thay vào đó là phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, mở đường cho sự phát triển sản xuất xã hội. Sản xuất xã hội phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình đó cơ cấu xã hội giai cấp cũ bị xoá bỏ, cơ cấu xã hội mới hình thành làm cho xã hội có giai cấp phát triển. Như vậy, cách mạng xã hội là đòn bẩy thúc đẩy sự thay đổi từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của xã hội có giai cấp đưa xã hội phát triển từ thấp lên cao.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ thế lực phản động, lạc hậu đồng thời còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng cách mạng. Qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp bị thống trị mới gột rửa được tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người áp bức người tạo nên. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.
Đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kỳ cách mạng, mà còn là động lực phát triển của xã hội ngay cả trong thời kỳ “hoà bình” của xã hội có giai cấp. Khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với lực lượng sản xuất, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội…không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử được phát huy như thế nào là tuỳ thuộc vào bản chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh.
Lịch sử nhân loại đã cách mạng vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức, bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Xã hội phong kiến phát triển đã tiếp tục dẫn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức, đặc biệt là giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến. Mâu thuẫn đó đã dẫn đến việc bùng nổ các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội sang giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp để tiến tới xây dựng xã hội không có giai cấp.
Không được coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Vì bên cạnh đấu tranh giai cấp, xã hội còn có các nhân tố thúc đẩy sự phát triển khác như tiến bộ khoa học kỹ thuật, tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật.
Muốn thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển tất yếu phải đấu tranh giai cấp, chống phủ nhận, né tránh đấu tranh giai cấp, chống hoà bình chủ nghĩa.
Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ tư hữu cuối cùng trong lịch sử thay vào đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản có thể chia làm hai giai đoạn:
Khi chưa giành chính quyền, mục tiêu là đập tan chính quyền tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Hình thức đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển từ thấp đến cao. Đấu tranh kinh tế là hình thức đầu tiên và thấp nhất, mục đích là bảo vệ lợi ích, quyền lợi hàng ngày, hình thức này hạn chế ở chỗ nó diễn ra tự phát, cục bộ. Hình thức thứ hai là đấu tranh tư tưởng với mục tiêu chống và đập tan hệ tư tưởng tư sản, vũ trang cho quần chúng nhân dân lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tuy nhiên, hình thức này chưa đập tan được chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền công nông. Với việc tham gia vào nghị viện, cao nhất là sử dụng bạo lực cách mạng. Đây là hình thức cao nhất, cơ bản để giành chính quyền.
Sau khi có chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp. Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân cũng thay đổi, từ mục tiêu tất cả để giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là giữ vững thành quả cách mạng: xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức quản lý xã hội, đặc biệt là quản lý và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa.
Điều kiện, mục tiêu đấu tranh thay đổi dẫn đến hình thức đấu tranh cũng phải thay đổi. V.I Lênin đã viết: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được" . Trong điều kiện đã có chính quyền, giai cấp vô sản phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, bằng giáo dục kết hợp với thuyết phục, bằng pháp chế và hành chính. Sử dụng hình thức đấu tranh nào tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, thì giai cấp công nhân phải xây dựng, củng cố và phát huy được khối liên minh giữa giai cấp công nhân -nông dân và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng cộng sản.
Cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực của giai cấp công nhân, nông dân và toàn thể nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cơ cấu giai cấp vốn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một thực tế khách quan. Vấn đề không phải là lảng tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà cơ bản là nhận thức đúng tính chất, đặc điểm, nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp để từ đó xây dựng các phương pháp xử lý tốt các quan hệ xã hội - giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp, vị trí giai cấp thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi. Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức nhưng nổi bật lên là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất do Đảng cộng sản lãnh đạo với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà bình” hòng thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ xã hội.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở “cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa". Đó là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa chống lại các nhân tố thúc đẩy đất nước chuyển dịch theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống nghèo nàn, lạc hậu. Cuộc đấu tranh đó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, diễn ra trên các tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực trật tự xã hội. Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản, do đó, sẽ có mâu thuẫn giữa người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản, còn có mâu thuẫn giữa sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản của tư bản tư nhân.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản tuy mang tính chất là mâu thuẫn đối kháng giữa lao động và bóc lột, nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay lại là mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Khẳng định điều đó vì: kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, tầng lớp tư sản có vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Họ có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, lợi ích hợp pháp của nhà tư sản thống nhất với lợi ích của cộng đồng xã hội. Trong quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tư sản là vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
Như vậy, nội dung đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân - nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ nặng nề và phức tạp, lâu dài, do vậy, phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan điểm giai cấp. Tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, cường điệu đấu tranh giai cấp, né tránh, mơ hồ đấu tranh giai cấp đều đi ngược lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ gây tổn hại đến thành quả của cách mạng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét