Vấn đề 1 : Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài làm
Chủ tịch Hồ Chí
Minh - vị anh hùng dân tộc, một danh
nhân văn hóa thế giới, điều đó đã được dân tộc VN và cả nhân loại ngày nay thừa
nhận. Với thiên tài trí tuệ của mình, với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân
sâu sắc, Bác - từ một con người giản dị bình thường đã trở thành nhà tư tưởng
vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng VN. Người là sự kết tinh những
giá trị tinh hoa nhất của văn hóa dân tộc và của nhân loại, là bước phát triển
mới của CN Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của VN. Tư tưởng ấy có giá trị vô
cùng to lớn, định hướng cho cách mạng VN trong hơn nữa thế kỷ qua, góp phần
thúc đẩy tiến trình văn minh, tiến bộ của nhân loại. Hiện nay tư tưởng HCM đang
tiếp tục soi đường cho CM nước ta trong sự nghiệp đổi mới, cương lĩnh của Đảng
ta năm 1991 đã xác định:” Đảng lấy CN
Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Vậy chúng ta hãy làm
rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ? Nguồn gốc, quá trình hình thành hệ thống tư
tưởng ấy và ý nghĩa của nó trong tình hình hiện nay.
1. Khái
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?
Tư
tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dânl, xây dựng nhà nước của dân, do
dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển KT-VH, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; về đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính chí công vô tư; về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán
bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là sản phẩm tinh thần to lớn của dân tộc ta.
Nói cách khác, khái
niệm tư tưởng HCM bao gồm nguồn gốc, những nội dung chủ yếu và thực tiễn vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
2. Điều
kiện lịch sử, xã hội, gia đình :
Tư
tưởng HCM là sản phẩm tất yếu của cách mạng VN, ra đời do yêu cầu khách quan,
đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng VN đặt ra từ đầu TK XX cho đến nay
Từ
năm 1858, đến cuối thế kỷ XIX, nước ta đang bị đế quốc Pháp xâm lược. Các phong
trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và lan rộng trong
cả nước : từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực … ở Nam bộ : Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Sinh Ôn, Phan Đình Phùng .. ở Miền Trung : Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích … ở Miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa có một đường lối kháng chiến rõ
ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều thất bại.
Bước
sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hóa, tầng
lớp tiểu tư sản và mầm móng của giai cấp tư bản, bắt đầu xuất hiện, ảnh hưởng
của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc tác
động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân dân ta chuyển
dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội … do các sĩ phu phong kiến
có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhưng do bất cập trước lịch sử nên
không tránh khỏi thất bại.
Những
năm đầu thế lỷ XX, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của
nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (tháng 12-1907); cuộc biểu
tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh Miền Trung bị đàn áp (tháng 4-1908); vụ
Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát (tháng 6-1908); căn cứ nghĩa quân
Yên Thế bị bao vây và đánh phá (tháng 01-1909); phong trào Đông Du bị tan rã,
Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật (tháng
2-1909); các lãnh tụ của phong trào Duy Tân Trung Kỳ, người bị lên máy chém
(Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi ..), người bị đày ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn..). Tình hình đó cho thấy , phong
trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thằng lợi phải đi theo con đường
cách mạng mới
b.
Quê hương, gia đình :
Nghệ
Tỉnh – quê hương của Bác Hồ là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại
xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sự Việt Nam như : Mai
Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như : Phan Đình
Phùng, Phan Bội Châu …
Từ
nhỏ, Hồ Chí MInh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc
lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hượng. Những tội ác của
bọn thực dân và thái độ ương hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều đã
thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước
Hồ
Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gần gủi với nhân dân. Cụ
phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà Nho giàu lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó
khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi
cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với
sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách của HCM
Đầu
thế kỷ XX, CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn CN đế quốc
và đã trở thành một hệ thống thế giới. Các nước đế quốc vừa tranh giành, xâu xé
thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm
kẹp thuộc địa chúng ta.
Cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX đã không còn là hành động riêng rẻ
của mỗi nước chống lại sự xâm lược và thống trị của CN đế quốc, mà trở thành
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc
Khi
còn ở trong nước, HCM tuy chưa nhận thức
được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước mình, người
đã thấy rõ con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả, phải đi tìm một
con đường mới. Trong khoảng 10 năm, HCM đã vượt 3 đại dương, 4 Châu lục, đặt chân
lên khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất chung của CNĐQ và
hoàn cảnh chung của các nước thuộc địa trên thế giới
Cuối
những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào công nhân Châu Âu
diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân
liệt trong nội bộ các Đảng XH dân chủ thuộcQuốc tế II. Một số Đảng bị
phân hóa, phái Tả trong Đảng tách ra thành lập các Đảng CS. Tháng 3 năm 1919,
Lê Ninh thành lập Quốc tế III - Quốc tế cộng sản, đưa phong trào CS thoát khỏi
chủ nghĩa cải lương, theo đuôi các chính quyền tư sản của các Đảng XH. Tác phẩm
Sơ khảo lần thứ I những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của LêNin và
các văn kiện ĐH III của Quốc tế Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận
việc thực hiện mối quan hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa, có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới
3.
Nguồn gốc tư tưởng HCM :
Tư tưởng HCM là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và
thực tiễn CM Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại được nâng lên tầm cao mới
dưới ánh sáng CN Mác LêNin
a. Tư tưởng văn hóa truyền thống
Việt Nam
Dân
tộc VN trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình
một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp,
cao quý.
Thứ
nhất, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử
VN, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa VN
Thứ
hai, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn kết cá nhân với gia đình, với làng, với
nước; là lòng nhân ái, khoan dung trọng nghĩa tình đạo lý
Thứ
ba, dân tộc VN là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Cơ sở của sự
lạc quan, yêu đời đó là niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, dân tộc mình,
niềm tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa
Thứ
tư, dân tộc VN là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản
xuất và chiến đấu, đồng thời cũng là dân tộc ham học hỏi, cầu tiến bộ và không
ngững mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại
b. Tư tưởng HCM là sự kết tinh tinh hoa văn
hóa nhân loại, thể hiện tập trung trên những nét tiêu biểu sau :
Thứ
nhất là tư tưởng Nho giáo : trong Nho giáo có các yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản
động nhưng cũng có những mặt tích cực như triết lý hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo, giúp đời, lý tưởng về một XH bình trị, một thế giới đại đồng; đó
là triết lý nhân sinh : tu tâm, dưỡng tính; đó là tư tưởng đề cao văn hóa, lễ
giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. HCM đã khai thách Nho giáo, lựa chọn những
yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ cách mạng
Thứ
hai là Phật giáo : Phật giáo vào VN rất
sớm và ảnh hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn trong VH VN. Đó
là tư tưởng vị tha, từ bi, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân;
đó là nếp sống có đạo đức trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đó là
tinh thần bình đẳng chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp; đó là tư tưởng đề cao lao động; chống lười biếng; đó là cuộc sống gắn
bó với nhân dân , với đất nước …
Ngoài
ra, những mặt tích cực trong tư tưởng Phương Đông, Phương Tây và cả chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn cũng được HCM tìm thấy “những điều thích hợp với điều
kiện nước ta”.
Trong
những năm tháng bôn ba, vừa kiếm sống vừa tham gia hoạt động cách mạng trên
khắp 4 Châu lục, người đã tận mắt chứng kiến cuộc sống của nhân dân từ các nước
tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp … đến các nước thuộc địa. Đó là những điều
kiện thuận lợi để Người nhanh chóng chiếm lĩnh vốn kiến thức của thời đại, đặc
biệt là truyền thống dân chủ và tiến bộ, cách làm việc dân chủ và sinh hoạt
khoa học của nước Pháp
c. Chủ nghĩa Mác LêNin : là nhân tố có
ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng HCM, là chủ nghĩa Mác LêNin, đó là cơ sở hình
thành thế giới quan và phương pháp luận của HCM . Nhờ có thế giới quan và
phương pháp luận của CN Mác Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được
những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư
tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm
chất của Nguyễn Ái Quốc
Thứ
nhất : đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh
tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu cuộc cách mạng tư sản hiện đại
Thứ
hai : sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại,
vốn kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào nhân
dân quốc tế để có thể tiếp cận với CN Mác LêNin khoa học
Thứ
ba : đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, yêu thương những người cùng khổ, sẳn
sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do của đồng
bào.
Chính những phẩm chất
cá nhân cao đẹp này đã quyết định việc Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận, chọn lọc,
chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng
đặc sắc của mình.
4. Quá
trình hình thành và phát triển tư tưởng HCM :
Tư
tưởng HCM không hình thành ngay một lúc mà phải trải qua một quá trình tìm tòi,
xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động phong phú
của người.
-
Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ 1890-1911) :
Trong thời trẻ, với những dặc điểm quê hương gia đình và môi trường sống, HCM
đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau : thứ nhất là
truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hóa dân tộc và bước
đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, hình thành hoài bão cứu dân cứu nước khi
chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất
khuất của cha anh
-
Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920) : đây là giai đoạn bôn ba tìm đường
cứu nước. HCM đã : tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Tiếp xúc với Luận cương của Lênin
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, HCM đã tìm thấy con đường chân chính cho sự
nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập
Đảng CS Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng HCM,
từ CN yêu nước đến CN Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp từ người
yêu nước thành người cộng sản.
-
Giai đoạn hình thành tư tưởng về con đường cách mạng VN (1921-1930) : HCM hoạt
động tích cực` trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng CS Pháp, tham gia sáng
lập Hội liên hiệp thuộc địa, SX báo Le Paria nhằm tuyên truyền CN Mác LêNIn vào
các nước thuộc địa. HCM sang MátXCơVa dự hội nghị quốc tế nông dân và được bầu
vào Đoàn Chủ tịch của Hội giữa năm 1923. HCM về Quảng Châu tổ chức Hội VN cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo
cán bộ, đưa Hội về nước hoạt động cuối năm 1924. Vào tháng 2 năm 1930, Người
chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng CS
Việt Nam và trực tiếp thảo các văn kiện : Chánh cương vắn tắt, Sách lượt vắn
tắt, Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kện này cùng với 2 tác
phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước đó là Bản án chế độ Thực dân Pháp
(1925) và Đường Kách Mệnh (1927), đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng HCM
về con đường cách mạng của VN.
-
Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của CM VN
(1930-1941) : do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở Phương Đông
và Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm Tả khuynh, tại ĐH 6 (1928) Quốc tế
CS đã chỉ trích và phê phán đường lối của HCM vạch ra trong Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo
của Quốc tế CS cũng ra án “nghị quyết” thu hồi Chánh cương vắn tắt và Sách lượt
vắn tắt, đổi tên Đảng CS Việt Nam thành Đảng CS Đông dương. Trong thời gian đó,
HCM tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc tế cộng sản, nghiên cứu CN Mác
Lênin và chỉ đạo cách mạng VN kiên định quan điểm của mình. ĐH 7 Quốc tế Cộng
sản 1935 đã có sự tự phê bình về khuynh hướng tả khuynh, cô độc, biệt phái, bỏ
rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào Cộng sản để cho các đảng tư
sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy và chống phá CM. ĐH có sự chuyển hướng về
sách lượt, chủ trương thành lập mặt trận
dân chủ chống Phát xít. Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán
những biểu hiện tả khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây
Đảng đã trở lại với Chánh cương vắn tắt, Sách lượt vắn tắt của HCM. Nghị quyết
HN TW tháng 11-1939 khẳng định rõ “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lực dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.
-
Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng HCM (1941-1969) : đầu năm 1941
HCM về nước trực tiếp chỉ đạo HN TW 8 (tháng 5-1941), đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu hiệu “cách mạng điền địa”, xóa bỏ vấn đề
lliên bang Đông dương, lập ra Mặt trận Việt Minh, thực hiện Đại Đoàn kết dân
tộc trên cơ sở liên minh công nông. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau 4 năm Đảng
đã lãnh đạo CM tháng 8 thắng lợi. Đó là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng HCM.
Sau khi giành được chính quyền, Đản g và nhân dân phải tiến hành 2 cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng CNXH ở Miền Bắc, vừa đấu tranh giải
phóng Miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng HCM được bổ sung, phát triển và hoàn
thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của CM VN : về đường lối chiến tranh nhân dân
“toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng CNXH ở
một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến quá độ lên CNXH không trải qua chế độ
TBCN, trên điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh, về xây dựng Đảng
với tư cách là Đảng cầm quyền, về xây dựng nhá nước kiểu mới của dân, do dân,
vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Trước khi qua đời (ngày 2/9/1969) HCM để lại di chúc thiêng liêng gửi
gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ
nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã
tổng kết sâu xa những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng VN, đồng
thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của
đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
Đảng
ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh thần vô
giá mà HCM để lại cho chúng ta. ĐH đại biểu toàn quốc của Đảng lần VII đã khẳng
định : Đảng lấy CN Mác Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng HCM đã thật sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi
sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển. Những biến đổi chính trị to lớn
trên thế giới diễn ra trong hơn 10 năm qua, vừa kiểm chứng vừa khẳng định tính
khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo giá trị dân tộc, ý nghĩa quốc tế
của tư tưởng HCM
5. Ý
nghĩa thực tiễn :
Qua
việc học tập và nghiên cứu tư tưởng HCM có ý nghĩa rất to lớn bởi vì :
Thứ
nhất, tư tưởng HCM cùng với CN Mác Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và cách mạng VN. Tư tưởng HCM trên nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận của CN Mác Lênin. HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mác
Lênin vào điều kiện củ thể của nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hóa VN, xuất
phát từ đất nước và con người VN nhằm giải đáp những yêu cầu thực tiễn và lý luận
của cách mạng VN. Vì vậy, phải nghiên cứu học lập CN Mác Lênin và đồng thời phải
đẩy mạnh học tập nghiên cứu tư tưởng HCM.
Thứ
hai, cốt lõi của tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Dưới ngọn cờ
tư tưởng HCM, cách mạng VN đã vững bước tiến lên giành được thắng lợi lịch sử có
ý nghĩa thời đại. Trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc
gia, khu vực … các thế lực thù địch cũng lợi dụng để ráo riết thực hiện âm mưu
diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ CNXH ở nước ta. Làm thế nào để không chệch hướng,
làm thế nào để bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc ? Chỉ có nắm vữn g cốt lõi
của tư tưởng HCM và độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thì chúng ta mới đổi mới,
hội nhập vững vàng, tự tin và chủ động
Thứ
ba, tư tưởng HCM là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo.
HCM là con người của độc lập, tự chủ của đổi mới và sáng tạo. Người luôn luôn
xuất phát từ thực tiễn, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng
đổi mới, tìm ra câu trả lời mới cho thực tiễn không ngừng biến đổi. Đó là nét đặc
sắc nhất của tinh thần và phong cách HCM. Ngày nay, thế giới đang diễn biến
theo xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa. Để giải quyết tốt những vấn dề đang đặt
ra trong thực tiễn đổi mới thì phải nắm cái tinh thần khoa học và cách mạng, tính
biện chứng của CN á Mác Lênin , tính độc lập tự chủ, đổi mới không ngừng sáng tạo
của Chủ tịch HCM, biết gắn lý luận với thực tiễn, lời nói và việc làm thật sự cải
biến hiện thực đất nước.
Tóm
lại, nghiên cứu học tập tư tưởng HCM là để thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm,
phương pháp cách mạng của HCM, để kiên định mục tiêu, lý tưởng nâng cao lòng yêu
nước, tinh thần phục vụ nhân dân, nâng cao đạo đức CM, vươn cao ngọn cơ lãnh đạo
của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét