Chuyên
đề 01
KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay,
Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính
trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với
cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991),
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của
mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) một lần nữa khẳng định lại điều
này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận thức và
tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch
sử, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta, tình cảm
nguyện vọng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta.
I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(1).
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội
dung chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ
thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến
lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam,
ra đời do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng
Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
a. Điều kiện lịch sử.
- Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm
lược. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng
cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực,... ở Nam
bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung
đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa
có một đường lối kháng chiến rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều
thất bại.
- Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến
chuyển và phân hóa, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt
đầu xuất hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của của Khang Hữu Vi,
Lương Khải Siêu ở Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện
của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang
phục hội... do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn
dắt, nhưng do bất cập trước lịch sử, nên không tránh khỏi thật bại.
- Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các
phong trào yêu nước của nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa thục bị đóng cửa
(tháng 12- 1907; cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung
bị đàn áp (tháng 4 – 1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát
(tháng 6-1908); căn cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (tháng 01 –
1909); phong trào Đông Du bị tan rã, Phan bội Châu và các đồng chí của ông bị
trục xuất khỏi nước Nhật (tháng 02-1909); các lãnh tụ của phong trào Duy Tân
trung kỳ, người bị lên máy chém (Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi..), người bị
đày ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên
Cẩn...). Tình hình đó cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn
giành được thắng lợi phải đi theo một con đường cách mạng mới.
b. Quê hương, gia đình.
- Quê hương.
Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu
truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng
nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung,
các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ,
bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê
hương. Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn
quan lại Nam triều đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới
để cứu dân, cứu nước.
- Gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho
giàu lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường
vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ trương lấy
dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã
có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách
của Hồ Chí Minh.
c. Thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã trở thành một hệ thống thế giới.
Các nước đế quốc vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để
nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX đã không còn
là hành động riêng rẽ của mỗi nước chống lại sự xâm lược và thống trị của chủ
nghĩa đế quốc, mà trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa
gắn với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở
chính quốc.
- Khi còn ở trong nước, Hồ Chí Minh tuy chưa nhận thức được đặc
điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước mình Người đã thấy
rõ con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả, phải đi tìm một con
đường mới. Trong khoảng 10 năm, Hồ Chí Minh đã vượt ba đại dương, bốn châu
lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất
chung của chủ nghĩa đế quốc và hoàn cảnh chung của các nước thuộc địa trên
thế giới.
- Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong
trào công nhân châu Âu diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân liệt
trong nội bộ các đảng xã hội Dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân
hóa. Phái tả trong các đảng tách ra, thành lập các Đảng cộng sản. Tháng 3 –
1919, Lênin thành lập Quốc tế III- Quốc tế cộng sản, đưa phong trào cộng sản
thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuôi các chính quyền tư sản của các đảng
xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các văn kiện Đại hội II
Quốc tế Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối
quan hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên
tế giới.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với
những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt
trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa
– tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập
vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước
đó.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân,
tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ
hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại
xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về
cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã
kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân
tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu
đời. Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân
mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân
của truyền thống lạc quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài
ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết
chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người
thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn
vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã
được hấp thụ môt nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài,
Người có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực
thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng
chữ Hán. Chính điều đó tạo điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa
nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người biểu tượng cho
sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông – Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng
có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là
triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã
hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa,
lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích
cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của
Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” (2).
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá
sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư
duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn,
thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch,
giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi
trọng lao động, chống lười biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập,
tự chủ đã hình thành nênThiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ
trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia
vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân
dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng
của các nhà tư tưởng phương Đôngnhư Lão tử, Mặc
tử, Quản tử... Khi đã trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm
về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những
yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng của Người.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường
Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất
ham mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
+ Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York,
làm thuê ở Bruclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người
thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi trong
Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của
các nhà tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước
xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng
lớn tới tư tưởng của Người.
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong
cuộc sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh
hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của
Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn
luyện trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh
đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa
Đông, Tây, từ tầm cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa
và đổi mới, vận dụng và phát triển.
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc
và thời đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu
tước trở thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố
tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa
nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh
thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận mác – Lênin.
- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
trên một loạt luận điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên
nhân sâu xa là:
+ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một
vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát,
phân tích, tổng kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào
sao chép, giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt
Nam.Chính Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ
chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”(3).
Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con đường giải phóng chúng ta” và
từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp
nhận thức mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói
buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối
sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng
Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh.
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với
đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong
phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào công nhân quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản
nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những
người cùng khổ sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ
quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ
Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân
tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải
qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với
quá trình hoạt động cách mạng phong phú của người.
a. Giai đạon hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng
(từ 1890-1911).
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi
trường sống, Hồ Chí Minh đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu
biểu sau:
- Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc.
- Vốn văn hóa dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương
Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước khi chứng kiến cuộc sống
khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.
b. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920).
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc
sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng
sản Pháp.
Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
c. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng
Việt Nam (1921 – 1930).
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa
của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản
báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các
nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được
bầu vào Đoàn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự
đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh
niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, raBáo thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính
trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối năm 1924.
Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn
kiện: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình
và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất
bản trước đó là Bản án chế độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách
mệnh (1927), đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng của Việt Nam.
d. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định
của cách mạng Việt Nam (1930-1941).
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở
phương Đông và Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại
hội VI (năm 1928), Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ
Chí Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương
tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án
nghị quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và sách lược
vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương. Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong
Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, kiên định quan điểm của mình.
- Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê
bình về khuynh hướng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân
tộc và dân chủ trong phong trào cộng sản. Để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản
và phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng về
sách lược, chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu
hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã
trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắtcủa Hồ
Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939 khẳng định
rõ: “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc
làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng
phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”(4).
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách
mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
đ. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh
(1941 – 1969).
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5 – 1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết,
tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông
Dương, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở
công nông liên minh. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo
cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải
tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ chí Minh được bổ sung, phát triển và
hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối
chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với
tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước kiểu mới - của dân, do dân,
vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế...
- Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di
chúc thiêng liêng gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo
đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì
Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài
học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra
những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân
tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc
hơn di sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi
sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn
mười năm qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính
cách mạng, sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
|
Chuyên
đề 02
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì
độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn
mình gấp bội và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều
kinh nghiệm và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong
những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang
truyền thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin, tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế
giới, nâng lên tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử.
Từ những hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu
tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ
nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô
dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất
hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở
thành vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
là độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của
nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào
tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...”(1).
Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về
quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền
tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã
được các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận,
thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình
Vécxây một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt
Nam. Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài
học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào
mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(2).
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi
thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương
8 của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(4).
Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta
trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải quyết giành cho được độc lập!”....
- Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm
thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng
bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy”(4).
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc
lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “...
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”(2).
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền
Nam, mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một
chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:“Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được tôn
vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được
thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân
tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc cần được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập
dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan
trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản
và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của
cách mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn
mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản
giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng
lợi cả cho người An Nam”(5).
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một
số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí
cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các
dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ
sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để
trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng
góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn
của đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước
phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(6); “Người
ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực
vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”(7).
Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnhhành động của Quốc tế Cộng
sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi
chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của
thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí
Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã
hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân
tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả
xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí
Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho
độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta
phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho
dân tộc ta vậy”. Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật
của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và
Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi
chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc
của con người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ
Chí Minh luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại
hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô
sản chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn
giải phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai
cấp. Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ
nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho
mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên,
trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc
lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó
Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9).
Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí
minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con
đường của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
vào thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh
luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ
nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám
vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái
vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách
mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân
tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách
mệnh mới thành công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của
giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của
Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn
dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn
dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công –
nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách
mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang
bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các
tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt,
Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối
với phú nông, trung, tiểuđịa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng
dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm
giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy
chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(13).
Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”(14).
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn
tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào
thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã
làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân
tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”(15); “nọc
độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc
địa”(16),
nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn
đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai
cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ
Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân
dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của
chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc
địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc
địa trong mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị
lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ
trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ,
Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở
Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một
cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên
đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân,
bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của
dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu
nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì
đã đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần
trong từng địa phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với
Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây
dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang,
chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và
chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ,
ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
|
Chuyên
đề 03
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ề ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, KẾT HỢP
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
I. Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
1. Vượt qua tư tưởng
yêu nước, độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến, tư sản.
- Ra đi tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất cập của tư tưởng yêu nước trong khuôn
khổ ý thức hệ phong kiến: “trung quân, ái quốc”, chống Pháp giúp
vua (cần vương), để đi đến quan niệm mới: dân là dân nước, nước là nước dân.
- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nguyên nhân hất bại của chủ
trương cứu nước dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản, những nước “cùng
máu đỏ da vàng”, do Phan bội Châu và các chí sĩ yêu nước trong “Phong
trào Đông Du” tiến hành.
Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư
sản của Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), tập trung ở chủ nghĩa
Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của
Tôn Trung Sơn. Người đã rất kính trọng Tôn Dật Tiên, sau này người đã chắt
lọc những nhân tố hợp lý, những quan điểm tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Nhưng
qua việc quyết định ra đi tìm đường cứu nước bằng cách đến nước Pháp,
đến phương Tây, cái nôi của chủ nghĩa tư bản, chứng tỏ Người chưa tin vào tư
tưởng yêu nước và con đường cứu nước đó.
2. Bước ngoặt lớn khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê.
Từ đây Người nhận thức được sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng
dân tộc trong thời đại mới được mở ra sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười:
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cách mạng
giải phóng dân tộc phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Người đã chỉ
ra: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tiến hành cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu
nước, cứu dân. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với
giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩ xã hội, giai cấp vô sản
phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng bước với
phong trào cách mạng vô sản thế giới....
3. Từ “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản” đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
- Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: bình đẳng, tự
quyết, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn nhất là dựa trên lập trường cách mạng vô sản. Sau khi
cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải bảo đảm cho dân
tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con
đường và mô hình phát triển độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Độc lập dân tộc phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển
toàn diện, có năng lực làm chủ.
- Độc lập dân tộc đói hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc
lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh
thần.
- Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế
giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành cái ác, của những sự tàn bạo
và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự
phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát
vọng gàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
1. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội.
a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa
từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở
phương đông qua “thuyết đại đồng” của Nho giáo... Sau khi ra
nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy trong chủ nghĩa Mác – Lênin lý tưởng về một xã hội nhân đạo trong
đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả
mọi người”. Khi đến nước Nga, Người đã thấy “Chính sách kinh tế
mới” của Lênin và những thành tựu bước đầu của nhân dân Xô Viết trên
con đường xây dựng một chế độ xã hội mới.
Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên
tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước
và khát vọng giải phóng dân tộc. Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học
và cách mạng của Mác con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội và giải phóng loài người. Người đã viết: “... chỉ có chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân toàn thế gíơi”(1).
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem
xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế
độ xã hội chủ nghĩa”(2). Từ đó,
Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo
đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và giải phóng loài người”(3).
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử,
văn hóa và con người Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng
dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí
thức, hiến tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản
chất nhân văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn
chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa
xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước
phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và
sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn
hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh
thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của
mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều
bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân
dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
c. Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí
Minh rất phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là độg lực con người, trên
cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
- Phát huy sức mạnh đoàn kêt của cộng đồng dân tộc - động
lực chủ yếu để phát triển đất nước.
- Phát huy sức mạnh của con người được giải phóng, được làm chủ.
Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người;
phát huy động lực chính trị, tinh thần, đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ
của người lao động, thực hiện công bằng xã hội...
- Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội.
+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm
thứ bệnh nguy hiểm. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch
hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, “bạn
đồng minh của thực dân phong kiến”, vì “Nó làm hỏng tinh thần trong
sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là
cần, kiệm, liêm, chính”(3).
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng không chịu
học tập cái mới,.... Đó là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
2. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính
quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau... Có nước thì đi thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội,... có
nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4).
Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai phương thức quá độ chủ yếu: phương thức quá độ trực
tiếp (từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội) và phương thức quá
độ gián tiếp (từ nghèo nàn, lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, qua dân chủ nhân
dân đi lên chủ nghĩa xã hội).
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhưng bao trùm, “to nhất” là
đặc điểm “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đạon phát triển tư bản chủ nghĩa”(5).
- Về độ dài và thời kỳ quá độ, Người nói “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”(6).
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “...phải
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(7).
- Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị -
xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: “Ta
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều
và lâu dài”(8),
“phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ
quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ
quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn
cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... đi bước vững chắc bước ấy, cứ
tiến dần dần”.
- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài,
phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
a. Bối cảnh thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh
đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, làm nảy sinh một trong những mâu
thuẫn cơ bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc
thuộc địa.
- Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời
của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới tạo ra mâi thuẫn cơ bản mới của
thời đại: giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội và mở đầu cho thời đại
mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới.
- Sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, bùng nổ các cuộc chiến tranh đế quốc.
- Chủ nghĩa tư bản tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân
dân chính quốc, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
ngày càng tăng lên trên thế giới.
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra
những bước phát triển mới trong sự nghiệp phát triển của kinh tế, chính trị,
xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế. Nói về khoa học kỹ
thuật, từ năm 1951 Hồ Chí Minh đã nói “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi
mau chóng hơn và quan trọng hợn nhiều thế kỷ trước cộng lại về khoa học kỹ
thuật”(9).
b. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
- Điểm xuất phát để ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là
nhận thức rõ và có niềm tin mạnh liệt vào sức mạnh của dân tộc. Đó là sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tư
cường, truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
+ Hồ Chí Minh là người đã nói công khai về chủ nghĩa dân
tộc. Người viết “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã
gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết
phản đối... Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam
cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi
khóa làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật bản và làm vua Duy Tân mưu
tính khởi nghĩa năm 1971”(10).
+ Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân ta, đồng thời cũng là của nhân dân
các nước thuộc địa đấu tranh với chủ nghĩa thực dân giảnh độc lập, tự do cho
dân tộc.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của thời đại được hình
thành từng bước, thông qua hoạt động thực tiễn và được tổng kết thành lý
luận.
+ Ra đi tìm đường cứu nước với thân phận người lao động, Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức: “Dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột”(11).
Vì vậy từ rất sớm, người đã kêu gọi: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và
ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống
bọn áp bức”(2).
+ Kảo sát chủ nghĩa đế quốc ngay tại sào huyệt của nó, Hồ Chí
Minh đã phát hiện và chỉ ra rằng: “cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở
thuộc địa,... họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến
đấu, thì cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của mình...”(3)
+ Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I.
Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó “một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về
chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”.
Đó là bước chuyển lịch sử, từ người yêu nước thành người cộng sản, nâng cao
nhận thức của Người về sức mạnh của thời đại: đó là sức mạnh của giai cấp vô
sản, cách mạng vô sản, sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế.
+ Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi vào tổ chức và hoạt động.
Người thành lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, viết báo Le Paria; tích cực
tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sát cách chiến đấu
cùng những người cộng sản và nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp
mình”....
+ Cùng với sự phát triển của lịch sử và thời đại, Hồ Chí Minh bổ
sung thêm sức mạnh của thời đại những nhân tố mới, đó là: sự hình thành và
phát triển và sức mạnh đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; là
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành
một nhân tố mới trong sức mạnh của thời đại.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại.
a. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó cách
mạng vô sản trên thế giới.
- Gặp Luận cương của Lênin, theo Quốc tế II (Quốc tế cộng sản),
Hồ Chí Minh viết: “Công cuộc giải phóng các nước và của các dân tộc bị áp bức
là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản.
Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên
minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của
các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”(12).
- Về cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới.
Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”(13).
+ Người đã kiến nghị với ban phương Đông quuốc tế Cộng
sản: “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt
nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”(3).
b. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
- Hồ Chí Minh nói: “Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình
để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ
nghĩa quốc tế vô sản”. Người nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước chân chính
khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản
động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế(14).
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn
thực dân, đế quốc với nhân dân lao động, yêu công lý và hòa bình ở các nước
đế quốc.
- Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người vẫn
yêu mến và đề cao văn hóa Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự
do của nhân dân Mỹ.
- Sau khi giành được độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo Hồ
Chí Minh, nội dung mới của kết hợp lòng yêu nước với tinh thần quốc tế là
phải phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã
hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò đoàn kết quốc tế, đoàn kết
giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Người chăm lo bảo vệ sự đoàn kết thống nhất
giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các đảng cộng sản anh em. Khi trong
phong trào có sự chia rẽ, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để khôi phục
sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản.
c. Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ
sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,
đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
- Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
Hồ Chí Minh coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên
ngoài là quan trọng, nó chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong.
Người nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là
chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”;
“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập”(15).
- Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng
đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc
lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại: hòa bình độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ,
vì vậy mà đã tranh thủ được sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai
nước có bất đồng sâu sắc, góp phần vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào
cộng sản quốc tế.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, “Phải
coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta..., giúp bạn là tự
giúp mình”.
d. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàg làm bạn với
tất cả các nước dân chủ.
- Trên con đường đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng cho tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân
dân và cách mạng thế giới.
- Sau khi giành được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố:
“Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”(16);
“Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối
với ngũ cường là một thái độ bạn bè”(3).
- Đối với nước Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng
cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân,
thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ
được nhân dân việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”(17).
- Với các nhà tư bản, Người nói: Bất kỳ nước nào (gồm cả nước
Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm
lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản
đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam cương quyết cự tuyệt.
- Hồ Chí Minh đã dành ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng
giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước Lào, Campuchia cùng nhau đoàn
kết chống kẻ thù chung.
- Đối với Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã bằng những hoạt động liên
tục, không mệt mỏi để xây đắp mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là
anh em”.
- Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các
nước trong khu vực và trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Người đã
đi thăm Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia, nhiều nước khác nhau, góp phần xây dựng và
phát triển sự đoàn kết các nước thuộc thế giới thứ ba, nâng cao uy tín, vị
thế của nước ta trên trường quốc tế.
Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm
tin vào sức mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời
đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là
lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong
trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân
văn hóa thế giới.
|
Chuyên
đề 04
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN,
CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
I. Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của
khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Quan niệm của Hồ Chí minh về sức mạnh của nhân dân, của
khối đại đoàn kết dân tộc.
- Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “...Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”(1).
+ Đầu thế kỷ XX, nước ta đang dưới chế độ tàn bạo của thực dân
Pháp, “hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa”(2),
Hồ Chí Minh chỉ ra: cách mệnh thì sống, không cách mệnh thì chết...; “cách
mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”(2).
- Tập hợp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân chính
của mọi thắng lợi của cách mạng.
+ Khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nói:
“Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các
giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để
tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
Lực lượng toàn dâ là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến
thắng được lực lượng đó”(3).
+ Khi nói về công việc “Kháng chiến kiến quốc”,
Người hỏi: Ai thực hiện “Kháng chiến kiến quốc”? Và trả lời: “Trong
công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”(4).
- Sức mạnh của dâ tộc được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống
nhất.
+ Về nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí
Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến
thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc”(5).
+ Năm 1955, Người viết: “.... với sự đoàn kết nhất trí của tất
cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất định sẽ thành
công trong việc đánh tan âm mưu của Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực
hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt Nam yêu quý
của chúng ta”(6).
- Trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đặt sự đoàn kết toàn dân tộc
trong mối quan hệ với đoàn kết quốc tế.
Người đã đưa ra câu nói nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công” (7)
Ba từ “đoàn kết” đó là sự thể hiện: đoàn
kết trong Đảng, đoàn kết trong dân, đoàn kết quốc tế.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Truyền thống dân tộc.
+ Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, cố kết dân
tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố qua
hàng ngàn năm lịch sử..., tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
+ Truyền thống đó đã trở thành tình cảm tự nhiên, là triết lý
nhân sinh, phép ứng xử và tư duy chính trị, cấu trúc xã hội: nhà – làng -
nước, thành phép đánh giặc giữ nước: “trên dưới đồng lòng, cả nước chung
sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”,
“chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”.
+ Hấp thụ truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Từ
xưa đế nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy (yêu nước) lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết), nó lướt qua mọi
sự nguy hiểu, khó khăn, nó nhất chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(8).
- Từ tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thấy các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX đều thất bại do chưa có đường lối đúng, chưa tập hợp được quần
chúng. Bởi vậy, Hồ Chí Minh xác dịnh: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và
các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng
bào chúng ta”(9).
- Nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của cách mạng thế giới.
+ Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng tư sản, đặc biệt cách mạng Mỹ
và cách mạng Pháp; do tính chất không triệt để của nó mà gười cho rằng đó là
các cuộc cách mạng “không đến nơi”.
+ Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa cho
tới lúc đó, Người thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn ở họ, và cả những hạn chế ở
họ: chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết, chưa có tổ chức và chưa
biết tổ chức.
+ Nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh rút ra nhiều
bài học, đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng công nông giành
và giữ chính quyền cách mạng..., xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh cũng chú ý nghiên cứu cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ,
tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của Tôn Dật Tiên, Găngđi...
- Chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Hồ Chí Minh tiếp thu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử;
giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước hết phải trở thành dân
tộc; liên minh công nông là cơ sở to lớn để xây dựng lực lượng cách mạng;
đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế....
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ yêu cầu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, chủ yếu qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Nhờ
vậy, Người đã nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn Việt Nam và trong thời đại mới để hình thành và hoàn chỉnh tư
tưởng của Người về sức mạnh của quần chúng nhân dân và đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công.
Trong tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh có tới trên 405 bài nói và
viết về đoàn kết, nổi bật là:
- Đoàn kết làm ra sức
mạnh, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”(10).
- “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”(11).
- “Đoàn kết” là điểm mẹ. “Điểm này mà thực
hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(3).
- “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
- Thành công, thành công, đại thành công”.
Đặt trong một nước thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, tư tưởng đoàn
kết làm nên sức mạnh của Người có ý nghĩa chiến lược, không chỉ trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc mà cả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày 3-3-1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao
động Việt Nam, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc:
“Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
“ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”.(12)
- Đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn
cách mạng.
Ngày 31-8-1963, nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ
tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một
là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến
để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn
luyện là: “Một là đoàn kết.Hai là xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất
nước nhà”(13).
- Đại đoàn kết dân tộc còn là mục tiêu, mục đích nhiệm vụ hàng
đầu của cả dân tộc.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản
thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của
quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành đòi
hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
- Khái niệm dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm
rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt
Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đó là “Mọi con
dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín
ngưỡng, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.
- Đại đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào
cuộc đấu tranh chung.
Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ”(14).
- Muốn đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, đại độ
với con người.
Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu
nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào; chúng ta hãy thật thà
cộng tác vì dân vì nước. Người căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải
thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
- Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công
nông.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết
dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận
dân tộc thống nhất”(15).
Sau này Hồ Chí Minh nêu rõ, nền tảng đại đoàn kết dân tộc là liên minh công -
nông – lao động trí óc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Ngay từ đầu Hồ Chí Minh tập hợp mọi người vào các hội, nghiệp
đoàn. Người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương, quy tụ người
Việt Nam yêu nước cả trong và ngoài nước.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những
nguyên tắc:
+ Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc)
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy
việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân
dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân
ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ
Chí Minh là “cầu đồng tồn dị”.
Năm 1962, tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận, Người
nói: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân... Phải đoàn kết
tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết
các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây
dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”(16).
- Tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh là đoàn kết phải bao gồm đấu
tranh, đấu tranh để đoàn kết tốt hơn.
Người viết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và
lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa
đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”(17).
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc
thống nhất, Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng
cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ
được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều đoàn kết mà không có
đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
5. Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống
nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
ngày càng vững chắc.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai
cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, “đại
đoàn kết dân tộc... thành vấ đề máu thịt của Đảng”.
- Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải:
“Vừa là đạo đức, vừa là văn minh”; “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”; “Đảng phải thực sự đoàn kết nhất
trí”; “được nhân dân thừa nhận”.
Người viết: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh
đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận tập trung thành nhất, hoạt động
nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(18).
- Đảng lãnh đạo Mặt trận, trước hết bằng việc xác định chính sách
mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất
quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ
công tác cách mạng”(19).
- Đảng lãnh đạo Mặt trận - thực hiện theo nguyên tắc Mặt
trận: hiệp thương dân chủ, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục,
thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh
thần tự giác, tự nguyện....
Người viết: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài
Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn
mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người....Cán bộ
và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến
bộ nhiều”(3).
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
- Hồ Chí Minh khẳng định: yêu nước chân chính phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
- Chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh xác định: “phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(20).
- Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi
khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”. Người là hình mẫu
của những hoạt động không mệt mỏi vì sự đoàn kết giai cấp công nhân, Đảng
cộng sản và các dân tộc trên thế giới.
Nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí
Minh không những được cả nước tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng
dân tộc Việt Nam mà còn được thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào
cách mạng thế giới, danh nhân văn hóa nhân loại.
|
Chuyên
đề 05
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN LÀM CHỦ
CỦA NHÂN DÂN, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
THẬT SỰ CỦA DÂN, DO DÂN,VÌ DÂN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà
nước của dân, do dân, vì dân có liên quan đến phạm trù dân chủ. Dân chủ là
một phạm trù chính trị - xã hội rộng lớn, nhưng nội dung cơ bản là quyền lực
thuộc về nhân dân. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ nghĩa là chủ và dân
làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ
nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực
hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động, chống
lại nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của
nhân dân phải tìm hiểu tư tưởng về nhà nước của Người - thực thể chính trị
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
I. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước.
1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh
nghiệm xây dựng Nhà nước trong lịch sử Việt Nam.
- Tư tưởng xây dựng Nhà nước Việt Nam được phản ánh trong các bộ
sử lớn của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại
chí...; trong những bộ luật nổi tiến như Bộ luật Hồng Đức (đời
Lê)....Các bộ luật sách nói trên phản ánh những tư tưởng pháp quyền.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc lịch sử Việt Nam, Người viết Việt
Nam quốc sử diễn ca để giáo dục và vận động nhân dân, trong đó có
nói đến các triểu đại Việt Nam trong lịch sử.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
- Nhà nước thực dân phong kiến.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái
gọi là “công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các
xứ “bảo hộ”.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu
sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân
tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít
quyền tự quyết của dân tộc với quyền tư do, dân chủ của nhân dân.
- Nhà nước dân chủ tư sản.
Người coi Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “những
cuộc cách mạng không đến nơi”, vì ở đó chính quyền vẫn trong tay một số
ít người - một xã hội bất bình đẳng.
- Nhà nước Xô viết.
Người gọi Nhà nước Xôviết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày,
giao công xưởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành
chủ nghĩa thế giới đại đồng”(1).
- Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà
nước, bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
II. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”(2).
Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà
nước của giai cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấ đề liên quan đến vận
mệnh quốc gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết” (Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu
dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân(3).
+ Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ
việc gì pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của
dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê hán những “vị
đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng
quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân
bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”(4).
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi
tiêu, hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu
cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân
tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ
Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...”(5).
+ Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh
đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo
phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi
nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và
tài, vừa hiền lại vừa minh”.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị, luôn
mang bản chất giai cấp.
+ Trả lời câu hỏi: Nhà nước của dân, do dân, vì dân có phải
nhà nước siêu giai cấp không?, Hồ Chí Minh trả lời: “Tính chất nhà nước là
vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính
quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định
toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước của ta là Nhà nước của nhân dân
dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(6).
+ Bản chật giai cấp của Nhàa nước ta là bản chất giai cấp công
nhân và được biểu hiện ở những nội dung:
* Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
* Định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng
cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội,
biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(2).
* Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước là nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... Có
phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân
dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất
lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”(7).
- Sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân, tính dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng
được giai cấp công nhân một cách triệt để.
+ Sự thống nhất này được thể hiện:
* Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc
đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng:
là hoa, là quả của bao nhêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của
những con người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung,
trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.
* Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân
tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ
đại đoàn kết dân tộc.
* Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ
chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của
cách mạng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ.
- Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một
nhà nước hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và
tuyên đọc trong cuộc mít tinh lớn tại thủ đô Hà Nội ngày 2-9-1945 đã khai
sinh ra Nhà nước Việt Nam mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp pháp của Chính
phủ lâm thời.
+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách là “Cúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộcTổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu”(8) để
sớm có m65t nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh
là Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu
tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong
việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt Nam mới.
- Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý
đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
+ Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn
đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí Minh viết: “Trăm đều phải
có thần linh pháp quyền”(9).
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra
cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc
thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Theo Người, công bố
luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới
thực hiện được tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý
thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến
khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân
chủ hình thức.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm”(10). “Lúc
dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của
dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích
nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở
cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước
hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Người viết: “Các bạn là
những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao
cái gương “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân
noi theo”(11).
- Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, phải
nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành
chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nước phải biết quản lý nhà
nước. Người ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa pháp lý học tại Trường
đại học Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được
đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính....
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm người tài đức”, Người
viết: công việc kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết
quân sự, kiến thiết giáo dục..., rất cần nhân tài. “Nhân tài nước ta dù
chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng
thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều(12).
Hồ Chí Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tẩy sạch óc
bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban hành Quy chế công chức – chú
trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính - thể hiện
tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ... của Hồ
Chí Minh trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lý nhà nước,
điều quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức
và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều này thì dù
giỏi mấy cũng không dùng được.
Phát biểu trước cử tri Hà Nội (ngày 5-01-1946), Hồ Chí Minh
nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng
mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên
bầu”(13). Sau khi
trúng cử Quốc hội, Hồ Chí Minh hứa với đồng bào: Trước sự nguy hiểm khó khăn
của nước nhà, chúng tôi đi trước. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi
xin đi trước.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể
làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ
phải “thân dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan
cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân”.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả.
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng nhà nước
pháp quyền, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây
dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật trong nhân dân..., đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề giáo dục đạo
đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong
thực tế trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu
tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật,
luô luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò,
sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức
cao nhất, theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”(14).
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh nhấn mạnh kịp thời ban
hành pháp luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn
định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và
phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép
tội tham ô, trậm cắp của công vào tội tử hình.
+ Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy
tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí Minh viết: Từ ngày thành
lập Chính phủ trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan
cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì gia.... Xin đồng bào hãy phê
bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp luật của ta “phải
thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì”(15).
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí,
quan liêu.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước là dựa vào
tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về
đạo đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm
trước, để làm kiểu mẫu cho dân”(16).
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc
trong lòng”. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay
không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng
tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức
cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội
lỗi Vệt gian, mật thám”(17).
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần
kíp như việc đánh giặc trên trên mặt trận. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra
sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn
nhiệm vụ của mình”(4).
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
ra nguyên nhân quan trọng là bệnh quan liêu.
Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên
đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ,
không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì thật trọng hình thức mà không
xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị,
xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có
mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung
túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô,
lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”(5).
|
Chuyên
đề 06
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
Sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trong một
thời kỳ lịch sử mà cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống
chủ nghĩa thực dân, đế quốc đang phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Chính bối
cảnh lịch sử đó khiến Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian, tâm lực nghiên cứu về
quân sự. Người đã làm việc, suy nghĩ, tìm kiếm không mệt mỏi để chuẩn
bị về lý luận và tổ chức cho khởi nghia vũ trang và chiến tranh cách
mạng. Người đã trực tiếp biên soạn nhiều tác phẩm quân sự có giá trị lý luận
và thực tiễn, bồi dưỡng kiến thức quân sự cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ta ngay trong buổi đầu cách mạng.
Trong khởi nghĩa và chiến tranh, Người vạch chiến lược quân
sự xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, sáng lập lực lượng vũ trang cách
mạng, kết hợp tài tình các phương pháp và hình thức đấu tranh, bồi dưỡng các
nhân tố cơ bản đảm bảo giành thắng lợi. Sự nghiệp quân sự của Hồ Chí Minh là
cống hiến to lớn đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bao gồm những quan điểm của Người về
bạo lực, về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân, về xây dựng
lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương và nền quốc phòng toàn dân, về
chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự ở một nước thuộc địa chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Tư tưởng quân sự ấy phản ánh quy luật phát triển của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện Việt Nam, là sự kết hợp hài
hòa và khoa học truyền thống quân sự của dân tộc ta với tinh hoa quân sự cổ,
kim, Đông, Tây của loài người.Nội dung cơ bản của tư tưởng Quân sự Hồ Chí
Minh là tư tưởng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và
chiến tranh nhân dân Việt Nnam trong thời đại mới.
1. Tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản
cách mạng.
Tư tưởng bạo lực cách mạng theo quan điểm Mác – Lênin là một nội
dung cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Dùng bạo lực cách mạng để chống
lại bạo lực phản cách mạng và tư tưởng về bạo lực cách mạng thống nhất biện
chứng với tư tưởng nhân văn và hòa bình, nó cũng hoàn toàn xa lạ với các xu
hướng phiêu lưu, manh động và khủng bố cá nhân.
Chủ nghĩa thực dân, tự bản thân nó, đã là “một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”(1),
từ đó Người khẳng định, độc lập, tự do thật sự của các dân tộc thuộc địa chỉ
có thế giành lại bằng cuộc đấu tranh của cả dân tộc, không thể cầu xin
mà có được, “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình”
và “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc,
cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”(2).
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giờ cũng
phải dựa vào hai lực lượng: chính trị của toàn dân và vũ trang nhân dân,
trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang.
Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh hoàn toà xa lạ, đối
lập với tư tưởng hiếu chiến của những kẻ xâm lược. Người tìm mọi cách ngăn
chặn các cuộc xung đột vũ trang, tìm mọi cách đẩy lùi chiến tranh, có khi
phải chấp nhận những nhân nhượng cần thiết, có nguyên tắc, bởi vì Người yêu
nước, thương dân, quý trọng sinh mệnh con người. Ngay cả khi đang tiến hành
kháng chiến, Người cũng không bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm hòa bình, sớm kết thúc
chiến tranh. Nhưng khi không có cách nào khác để tránh khỏi chiến tranh, kẻ
thù độc ác và ngoan cố gây chiến tranh xâm lược, Người kiên quyết kêu gọi
toàn dân tộc, toàn quân nhất tề đứng dậy chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.
“Đồngbào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình... Tôi biết là nhân dân Pháp
không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi
cách... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn
vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc
chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”(3).
Do chúng ta phải phát động và tiến hành một cuộc chiến tranh
chính nghĩa chống xâm lược và bạo tàn nên Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh vai
trò quyết định của chính trị trong việc vạch ra đường lối chiến lược, phát
động và tập hợp quần chúng tham gia kháng chiến, xây dựng và sử dụng lực
lượng, củng cố hậu phương, nâng cao trạng thái chính trị - tinh thần của nhân
dân và lực lượng vũ trang. Đó là tư tưởng có tính nguyên tắc, đồng thời là
một đặc trưng nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
2. Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân là một đóng
góp to lớn và mang tính sáng tạo sâu sắc của Hồ Chí Minh, trong đó có những
nội dung chủ yếu sau:
- Khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang toàn dân
do toàn thể dân tộc tiến hành, đó là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của khởi
nghĩa giành chính quyền. Với tư tưởng đó, Người luôn luôn kêu gọi cả dân tộc,
bất cứ ai là người Vịêt Nam có lòng yêu nước phải tham gia vào việc cứu nước,
vào khởi nghĩa vũ trang để giành cho được độc lập.
- Vận dụng tư tưởng Lênin về tình thế cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ
ra các điều kiện của thời cơ khởi nghĩa, chỉ đạo tìm kiếm mọi cách tạo thời
cơ và nắm vững thời cơ để phát động khởi nghĩa toàn dân.
- Khởi nghĩa vũ trang là phải dùng vũ khí, phải chiến thắng bằng
lực lượng vũ trang, song đó lại là “cuộc chiến tranh to tát về chính trị và
quân sự”, kết hợp hài hòa hai lực lượng đó, “làm đúng thì thành công, làm sai
thì thất bại”.
- Khởi nghĩa từng phần đi đến tổng khởi nghĩa và khi giành được
chính quyền, phải khẩn trương xây dựng chính quyền cách mạng, và đó phải là
chính quyền của dân, do dân, vì dân.
3. Tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa
vào sức mình là chính.
Cuộc chiến tranh mà dân tộc chúng ta phải tiến hành vừa là chiến
tranh giải phóng, vừa là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại chiến tranh xâm
lược của chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Từ bản chất chính nghĩa sâu sắc ấy và
từ lý tưởng cao quý của cuộc chiến đấu nên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc
chiến tranh ấy được thể hiện bằng cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ và dựa vào sức mình là chính.
- Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc trong
lịch sử giữ nước lâu dài của chúng ta, đồng thời vận dụng triệt để và sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, nhận thức sâu sắc tình yêu Tổ quốc và khát vọng độc lập tự do của
nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định một luận điểm cơ bản: kháng chiến là
sự nghiệp của dân, có dân là có tất cả, khởi nghĩa toàn dân để giành độc lập
cho dân tộc và chỉ có tiến hành kháng chiến toàn dân mới giữ vững được nền
độc lập ấy. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là sự thể hiện hàm súc và đầy sức thuyết phục tư tưởng lớn
của Người về quân sự, về kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đán bà, bất
kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”(4).
Chính đường lối, tư tưởng chính trị - quân sự đúng đắn đó đã tạo khả năng
động viên to lớn toàn bộ sức mạnh, nghị lực và tinh thần sáng tạo của nhân
dân khi đi vào kháng chiến.
- Chiến tranh là một thách thức toàn diện đối với một đất nước,
một dân tộc, một chế độ. Đối với một cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc của một dân tộc bị áp bức, nô lệ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không dùng
toàn lực của dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được. Phát
huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt
trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, tư tưởng, văn hóa... là nội
dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện.
Đấu tranh quân sự là phương thức chủ yếu nhất của chiến tranh.
Đấu tranh chính trị là một nội dung rất cơ bản trong chiến tranh nhân dân.
Phối hợp chặt chẽ và linh hoạt với hai phương thức trên là đấu tranh ngoại
giao nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của thời đại. Để tạo sức mạnh nội sinh
của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ đấu tranh kinh tế, xây dựng hậu phương vững
mạnh và đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa nhằm đồng thời nâng cao,
tăng cừơng sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến là yêu cầu cao
của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quố phòng toàn dân, về kháng chiến toàn
diện.
- Kẻ thù bao giờ cũng có âm mưu tốc chiến, tốc thắng để đánh đổ
chính quyền cách mạng và chế độ mới của chúng ta. Để chống lại âm mưu đó, Hồ
Chí Minh khẳng định: Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta
ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn
diện của toàn dân”(5).
Kháng chiến trường kỳ để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bồi dưỡng, phát
triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh để đánh bại từng âm mưu chiến
lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
“Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, dựa vào sức mình là chính” là một nội dung rất quan trọng trong tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Theo người, một dân tộc mà không biết tự lực cánh
sinh, không biết dựa vào chính sức mình để giải phóng cho mình thì không xứng
đáng được độc lập, tự do. Ngay cả khi chúng ta đã tranh thủ được sự đoàn kết
quốc tế với sự giúp đỡ và ủng hộ về vật chất và tinh thần, thì tư tưởng trên
của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa cực ký quan trọng của nó.
4. Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chiến tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa chống thực dân, đế
quốc lúc đầu bao giờ cũng là cuộc chiến đấu của người yếu chống kẻ mạnh. Muốn
giành thắng lợi không thể chỉ dựa vào ý chí, mà phải có đường lối chiến lược
đúng đắn, sáng tạo, biết tạo ra sức mạnh, càng đánh phải càng mạnh, dám đánh,
quyết đánh đồng thời phải biết đánh. Biết đánh bằng nghệ thuật quân sự của
chiến tranh nhân dân. Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, vấn đề nghệ thuật
quân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Người đã viết hàng chục tác
phẩm có giá trị về nghệ thuật quân sự. Trong lĩnh vực này, Hồ Chí Minh đã học
tập, vận dụng và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự của cha ông ta
“lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn””... lên một tầm
cao mới đáp ứng được những yêu cầu và thách thức mới trong một cuộc chiến
tranh thời kỳ hiện đại (thế kỷ XX).
Tư tưởng trường kỳ kháng chiến của Hồ Chí Minh không đối
lập với tư tưởng chiến lược tiến công, luôn giành thế chủ động, mà thống nhất
biện chứng với nhau. Toàn dân trường kỳ kháng chiến, song trong nghệ thuật
quân sự cụ thể lại phải luôn chủ động giành thế tiến công, đồng thời tiến
công phải chắc thắng, không phiêu lưu, mạo hiểm. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí
Minh còn là nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu,
thắng địch bằng thế, lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng
đông, biết tập trung ưu thế vào thời cơ quyết định để luôn luôn đánh địch
trên thế mạnh. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là biết đánh địch bằng mọi
lực lượng, mọi quy mô, mọi thứ vũ khí, trang bị, không chỉ đánh vào quân đội
có vũ khí, mà đánh thẳng vào lòng người kết hợp tác chiến với binh vận, địch
vận. Và đó cò là nghệ thuật biết khởi đầu chiến tranh và biết biết kết thúc
chiến tranh vào thời điểm có lợi nhất và thích hợp nhất.
5. Tư tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị quần chúng và lực
lượng vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và
chiến tranh cách mạng. Sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau của hai lực
lượng đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị
quần chúng. “Sự đồng tâm của đồng bào đúc nên bức tường đồng xung quanh Tổ
quốc”. Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở cho đấu tranh quân sự, đồng
thời đó còn là lực lượng tiến công trực tiếp đánh địch theo các phương thức
và nội dung rất phong phú, linh hoạt.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo ba thứ quân: bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích là một nội dung lớn và sáng tạo
trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, việc xây dựng bản chất cách
mạng, ý thức và trình độ chính trị cho lực lượng vũ trang được đặc biệt quan
tâm và tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ, hệ thống. “Quân sự mà
không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(6). Hồ Chí
Minh đã đúc kết một truyền thống quý báu, khái quát bản chất chính trị của
lực lượng vũ trang nhân dân ta làtrung với nước, trung với Đảng, hiếu với
dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội, và xác định quân đội ta có ba nhiệm vụ: đội quân chiến đấu, đội
quân công tác và đội quân sản xuất, từ đó Người khẳng định một nguyên tắc bất
dịch là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực
lượng vũ trang nhân dân (ba thứ quân) và lực lượng công an nhân dân.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu
lên một lụân điểm hết sức quan trọng và được diễn đạt vô cùng giản dị, cô
đúc, đó là “người trước, súng sau”, nghĩa là sự thống nhất giữa người
cầm vũ khúi, trong đó người cầm vũ khí đóng vai trò quyết định. Chính vì thế,
Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ
chính trị, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ văn hóa, có tri thức và kỹ năng
quân sự, có sức khỏe để đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ của một đội quân
chiến đấu, sản xuất và công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
quân sự, cả chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật và hậu cần. “Tướng là kẻ
giúp nước. Tướng giỏi (đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm) thì nước mạnh.
Tường xoàng thì nước hèn”(7).
Người nêu ra sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân sự là “Trí
- Dũng - Nhân - Tín – Liêm – Trung”.
Dưới ánh sáng của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, thực hiện một
cách triệt để, trung thành và sáng tạo tư tưởng ấy với một niềm tin yêu vô
hạn dành cho người Tổng tư lệnh tối cao của mình, 60 năm qua, lực lượng vũ
trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển không ngừng, hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Có lẽ, phần thưởng cao quý nhất, độc đáo nhất
dành cho lực lượng vũ trang nhân dân chính là danh hiệu “Bộ đội cụ Hồ” mà
nhân dân ta đã gọi, đã trao tặng cho những người con thân yêu của mình.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu
phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận
dân tộc thống nhất, động viên sức mạnh toàn dân vào công cuộc kháng chiến cứu
nước và bảo vệ Tổ quốc. Hậu phương vững chắc là một trong những nhân tố
thường xuyên quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Đối với Hồ Chí Minh, hậu
phương không chỉ là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực mà còn là sức mạnh tinh
thần, trong đó lòng dân lại là sức mạnh đặc biệt to lớn. Một nền quốc phòng
toàn dân hùng mạnh với sự tham gia của tất cả các ngành, các giới... luôn
luôn góp phần quyết định trong các cuộc kháng chiến của chúng ta, từ chống
Pháp, đuổi Nhật đến chống Mỹ xâm lược. Nghệ thuật phát huy cao độ sức mạnh
toàn dân đánh giặc với lòng dũng cảm phi thường và trí thông minh, sáng tạo
tuyệt vời là một thành tựu to lớn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi.
Trong những năm vận động cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang nhân dân giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng căn
cứ địa cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, Người nhấn mạnh nhiệm vụ xây
dựng hậu phương để tạo tiềm lực cho cuộc kháng chiến, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc. Những tư tưởng và kinh nghiệm quý báu đó đã được Hồ Chí Minh nâng
cao và hoàn chỉnh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng toàn dân kết hợp chặt
chẽ với an ninh nhân dân mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là kết quả của sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ những năm chuẩn bị khởi nghĩa và ngay sau
khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tất nhiên, trong một điều kiện mới
và với một trình độ phát triển mới mẻ để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đất nước chúng ta, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang bước
vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức gay gắt.
Nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, bảo vệ thành quả cách mạng mà nhân dân ta dày công đấu tranh, xây
dựng nên.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu,
vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân,
trực tiếp tạo nên sức mạnh vô địch vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
|
Chuyên
đề 07
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ
VĂN HÓA, KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí
Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho
dân tộc, kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự
do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân”(1).
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của
nhân dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ
đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu
và gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, Người đã chỉ rõ: “... nhiệm vụ
quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội,... có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài”(2).
2. Về cơ cấu kinh tế.
- Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Người chỉ
rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp,
hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai
chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho
nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy,
cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng
cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy
cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp
mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và
cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh
và nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
- Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là
con đường no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960),
Người chỉ rõ nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản
xuất của miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn
nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy
thì làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời:
“Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản
xuất một cách hật rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra
máy, ra gang, thép, than, dầu.... Đó là con đường phải đi của chúng ta,
con đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở
mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no
ấm thật sự của nhân dân ta”(1).
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
- Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế
đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là
của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2).
Người chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở
hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp
trở thành một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ
tập thể.
- Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có
năm loại kinh tề khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung
của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ
nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến
dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân
để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau
hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ
không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(1).
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc
doanh để tạo nền tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp
tác xã với các hình thức đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lợi và quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho
họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công
thương, họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo,
hướng họ hợp doanh với Nhà nước để góp phần xây dựng đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác
của họ, hướng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch Nhà
nước.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong
sản xuất, trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động. Đồng
thời, phải chống tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng
minh với giặc ngoại xâm.
Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con
đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân
dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2).
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa
thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc
biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.
Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1).
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn
nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với
kinh tế, chính trị, xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng
tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ
điều kiện phát triển được”. Mặt khác, Người lại khẳng định nhiều lần ý
nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển
xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng,
trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng
phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng
thời, trong quan hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết
định của chính trị và kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nước còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số
phận nô lệ đó, vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị
trước để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa,
mở đường cho văn hóa phát triển. “Xưa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa
của ta vì thế không nảy sinh được”.
Khi đất nước đã được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ
Chí Minh chỉ rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải
xây dựng kinh tế làm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói
phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo;
vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(2).
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ
tầng, vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong
kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần
thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân
dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối
với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3).
nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà
chính là bản chất xã hội của văn hóa, là một quy luật khách quan của mối quan
hệ biện chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
nhằm định hướng cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nước ta: Tham gia cách
mạng là con đường duy nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và
những người hoạt động, sáng tạo trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp
bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn được tự do thì phải tham gia
cách mạng. Tham gia cách mạng không chỉ để đóng góp tích cực vào tiến trình
và thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, mà
còn vì nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì sự tự do chân
chính của văn nghệ. Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh thực sự
có ý nghĩa lớn lao đối với văn hóa, văn nghệ nước ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trưng, chức năng của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn
hóa mới” và chỉ rõ tính chắt, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa
đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho
thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban
này ngày 7-9-1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư
tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ
đó, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta
nhấn mạnh các tính chất, đặc trưng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến
trình cách mạng, với kết quả tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng
bước điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu
trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn
để tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống nhất - nền văn hóa Việt Nanm
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất
của dân tộc Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững
đó của văn hóa dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát
triển với những đặc trưng mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật
thiết và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý
tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở
thành nội dung cốt lõi của nó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền
văn hóa mới của chúng ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là những giá trị bền
vững, cao quý và những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân tộc cùng với
những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của dân
tộc ta. Có nghĩa là, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm
chất hòa quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn
hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới,
trước hết là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện
mạo, đặc tính và cốt cách dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân,
gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũg cảm, thông minh trong chiến
đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa thủy
chung với người thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ân cần nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản
sắc tốt đẹp ấy của dân tộc. Người khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh
thần dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”... không chỉ ở chiều sâu của nội
dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương thức biểu
hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và
cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái
độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn
lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với những điều kiện lịch sử
mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh
để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt
đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi
thứ văn hóa độc hại... “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy
để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa
xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy
Việt Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một
nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”,
mà trước hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát
triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao đời sống tinh
thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ
mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa. Trong quan niệm của mình về văn hóa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt
của văn hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống, miêu tả và khám phá con người,
bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình
thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và
chiến thắng của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trưng và sức mạnh riêng của văn
hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn
hóa có thể và cần phải nuôi dưỡng, xây đắp cho con người nhữg lý tưởng cao
quý, những tư tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người để
giúp con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con người có
năng lực và khát vọng không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn
thiện ấy chính là quá trình con người vươn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và
đấu tranh với cái xấu xa, đen tối, lạc hậu. Vai trò cao quý của văn hóa, với
tư cách là động lực của sự phát triển, trước hết là thông qua chức năng chủ
yếu và đặc trưng này của văn hóa. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Phải làm
thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải
sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ... văn hóa phải làm
thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do... làm thề nào cho mỗi
người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ
của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình đáng được hưởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng
là nói đến trình độ của con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá
trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức
năng không thể tách rời của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc
đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ
lớn lao trên của văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy ngay khi đất nước ta kết thúc cuộc
chếin tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ quan điểm đó mà Người luôn đòi hỏi rất
cao đối với chất lượng của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của
con người - nhận thức, tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu
biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Người nhắc
nhở: Phong trào văn hóa có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải
trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao tri thức của quần chúng. Sự nhắc nhở đó
cách đây đã gần 40 năm, nhưng chúng ta thấy đó như là sự phê bình trực tiếp
những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn hóa nước ta trong những tháng
ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trưng và chức năng đặc biệt trên của văn
hóa, theo lời dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách
để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật,
kỷ cương... và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và với
chính mình..., biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát
triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Xét về đặc trưng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có
văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn
hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống...
Hồ Chí Minh đã quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó
của văn hóa. Xét về loại hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Người đã đề
cập và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ
thuật, từ khoa học đến giáo dục, từ đạo đức đến lối sống nếp sống, xây dựng
đời sống mới, từ các hoạt động văn hóa quần chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ
thuật chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá khứ đến văn hóa, nghệ thuật
hiện đại, đương đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ và chữ viết...
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc,
toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rất rõ ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh
riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo
chính xác, khoa học các quan điểm cơ bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động
đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ
(được hiểu là văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của
đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng văn nghệ Người đã khai sinh ra nền văn nghệ cách
mạng và chính Người là ngọn cờ đầu, là người thầy, người chiến sĩ mở đường,
tiên phong trong sáng tạo văn nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và
lý luận văn nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một
chân lý, một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ
khí sắc bén trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng con người mới và xã
hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to
lớn và sâu sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội
ngũ văn nghệ sĩ kiểu mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến
sĩ, nghệ sĩ, tự nguyện tham gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự
sáng tạo của mình. Để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ
- Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn văn nghệ sĩ phải bồi dưỡng đồng thời cả
phẩm chất và tài năng, hai nhân tố quyết định cho thành công trong hoạt động
sáng tạo của mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là
công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời
sống của nhân dân”, gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động,
sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt, học tập và xây dựng cuộc sống mới để có thể
phản ánh chân thật, sinh động thực tiễn ấy, “bày tỏ được tinh thần
anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và
nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn
luôn là nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ
thuật, chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa
mình với quần chúng”, gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới
nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà
văn quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(1).
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của
dân tộc, của đất nước, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân
thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng
thời là một nguyện vọng, mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp văn nghệ và đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng
tác cho hay, cho chân thật là những yêu cầu tạo ra những giá trị về tư tưởng
và nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ. Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật
những người mới, việc mới” không đồng nghĩa với việc tô hồng hiện thực, tạo
ra những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc phê phán cái sai, cái
tiêu cực, cái xấu trong xã hội. Người khẳng định: “Viết để nêu những cái hay,
cái tốt của dân tộc ta... đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của chúng
ta, của cán bộ, của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà
giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải
chừng mực, chớ phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự
nhân dân, tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng,
phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản
thân văn nghệ và cũng là một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình
thái hoạt động đặc thù này: “... cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú,
không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần
cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”(2).
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng
góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống
văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và
truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp
nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn
giáo... tham gia tự nguyện, thường xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì
lúc đó, văn hóa mới phát triển bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời Người yêu cầu
làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ
của con người, lúc đó, văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của
mình, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã
hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng
đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt
Nam chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của
các dân tộc, đồng thời l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất
trong đa dạng đó. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các
dân tộc, phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời,
đặc biệt từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua
đời (tháng 9 – 1969), Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy
sáng tạo cho nhiệm vụ xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống
mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới.... Cuộc vận động độc đáo này của
Hồ Chí Minh trong suốt gần 60 năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn,
sâu sắc trong đời sống văn hóa của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớ
cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc của chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tư tưởng có ý nghĩa chiến
lược sâu sắc, vừa có tác dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của
chúng ta. Hồ Chí Minh là nhà lý luận văn hóa, đồng thời chính Người là danh
nhân văn hóa kiệt xuất. Ở Người, nói thống nhất với làm, chính vì vậy, những
chỉ bảo của Người có sức thuyết phục cao. Đó cũng chính là niềm tự hào và
hạnh phúc đối với sự nghiệp văn hóa cách mạng của đất nước và dân tộc ta.
|
Chuyên
đề 08
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường Kách mệnh. Đây là
cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học
thuyết Mác – Lênin và cũng là cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về
chủ nghĩa Mác – Lênin cho lớp thanh niên ưu tú thời đó. Đặc biệt, mở đầu tác
phẩm lại là bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Phải chăng, Hồ Chí Minh,
ngay từ thời kỳ đó, đã bắt đầu chỉ tra một quan điểm lớn của Người: cái đức
là gốc của người cách mạng.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân
trước lúc ra đi, trước hết, Người dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được
đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng
đã bàn nhiều nhất, quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Bàn một cách sâu
sắc, cô đọng, thấm thía, đồng thời chính Người đã tự mình, trong cả cuộc đời,
thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tư tưởng và khát vọng đạo
đức do mình đặt ra. Hồ Chí Minh vừa là nhà lý luận về đạo đức, vừa là một tấm
gương đạo đức trong sáng, gần gũi và độc đáo nhất.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất
mới và đã được chính Người gọi tên cho nó, đó là đạo đức mới, đạo đức cách
mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công
xây đắp trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của
loài người. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm,
phạm trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức
Nho giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi
hoàn toàn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của
thời đại mới. Chính vì thế mà có sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh luô luôn gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi
người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của người cách
mạng bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp
khổng lồ”, đầy gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự
kiên định, lòng dũng cảm và hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không
chăm lo xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có
thể thực hiện được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt
bình dị của Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức
mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ
đại giải phóng và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh
báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng
phải là đạo đức, là văn minh”, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức phải là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng,
người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu
hình thành và phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ
phận hết sức quan trọng khắc họa diện mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt
Nam, của Văn hiến Việt Nam hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng
và của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
và vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con
người Việt Nam thời đại mới.
Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con người và
xã hội Việt Nam, từ sự từng trải sâu sắc và tu dưỡng của chính mình, từ niềm
tin lớn lao vào khát vọng và sức vươn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con
người, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con người
Việt Nam, cho mọi người, mọi đối tượng (công nhân, nông dân, trí thức, văn
nghệ sĩ, bộ đội, công an, già trẻ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn
giáo...) trong mọi lĩnh vực hoạt động và sinh sống của con người, trong mọi
phạm vi (cá nhân, gia đình, làng xóm, phố phường, tập thể..) và trong các
quan hệ phong phú, phức tạp, tinh tế của con người.... Từ đó, Người khái quát
thành những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung
của nền đạo đức cách mạng Việt Nam.
Một là, trung với nước, hiếu với dân là
phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về
trung và hiếu, Hồ Chí Minh đã đưa vào đó nội dung hoàn toàn mới: trung với
nước là sự trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước
của nhân dân. Nước ở đây là nước của dân, còn dân là người làm chủ, chủ nhân
của đất nước, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, tư tưởng mà Người đề xướng “hiếu
với dân”, không phải chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà là gần dân, gắn bó với
dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cao hơn: đó
là “tận trung, tận hiếu”, có như vậy mới xứng đáng là Đảng của đạo đức và văn
minh, cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm
của con người Việt Nnam, là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi
người, là khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn
cờ, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hai là, yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp
đẽ à cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt
Nam và chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ
cuộc đời mình.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di chúc, Hồ Chí Minh
đã viết như vậy và toàn bộ sự nghiệp của Người cũng đã chứng minh cho tư
tưởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân
biệt miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là người Việt
Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người, nhưng trước hết
là dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột.
Không có tình yêu thương đó, không có thể nói đến cách mạng, càng không thể
nói đến lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình yêu thương đó gắn liền với thái độ
tôn trọng con người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và khoan dung
với người, đồng thời nghiêm khắc với mình.
Vì yêu thương vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu
tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do là con đường để giải phóng con
người, coi con người được giải phóng và được sống trong độc lập, tự do là
nguyện vọng sâu xa và hạnh phúc lớn lao của chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả
năng tự giải phóng của con người, vào năng lực và khát vọng vươn lên tự hoàn
thiện mình theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất được
Hồ Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các bài viết, bài nói
về đạo đức cách mạng.
Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, được thể hiện cụ thể,
hàng ngày của mỗi con người, là cái nhìn thấy được của đạo đức, không thể che
giấu, gắn chặt giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức
phương Đông, giữ lại những gì tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những gì lạc hậu, lỗi
thời và đưa vào những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có
kế hoạch, sáng tạo và có năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân,
của nước, của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương,
hình thức, xa xỉ, hoang phí....
Liêm là “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết
trong mọi hoàn cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa là không tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với
người và đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ
mấy cũng tránh”.
Về chí công vô tư, theo Hồ Chí Minh là “khi làm bất cứ
việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”,
“phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải
thích sinh động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra
quan hệ mật thiết giữa chúng với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới
chí công vô tư, và chí công vô tư, một lòng vì vì dân, vì nước nhất định sẽ
thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. người yêu cầu mọi người dân Việt
Nam đều phải rè luyện, tu dưỡng theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc biệt là
cán bộ, đảng viên có chức, có quyền: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các
đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ
công vi tư”.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm
chất đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn, vượt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết
“bốn hương vô sản đều là anh em”, tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân
các nước, với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị,
công lý và tiến bộ xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành lý luận
đạo đức nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên
tắc và phương châm để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Đây cũng là một đặc trưng rất
riêng, độc đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức là một
yêu cầu, một phương châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả
cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn
vẹn. Đối với Hồ Chí Minh, nói phải luôn luôn đi đôi với làm và cao hơn, làm
rồi mới nói, làm nhiều, nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không
nói, không tự phô trương mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói mà không
làm, nói một đàng, làm một nẻo và Người cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là bài học thời sự sâu sắc đối với
vấn đề đạo đức trong Đảng ta hiện nay. Người chỉ ra một luận điểm rất quan
trọng, có giá trị vô cùng thiết thực không chỉ lúc đó, mà trực tiếp với hiện
nay: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng
sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư
cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta
bắt chước”.
Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phương châm xây dựng đạo
đức là vấn đề nêu gương. Không gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lôi cuốn
hơn trong lĩnh vực đạo đức bằng việc nêu gương, Hồ Chí Minh đã làm như vậy
một cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo và vì thế đã có tác dụng vô cùng to lớn,
sâu sắc trong toàn bộ đời sống đạo đức của xã hội ta, đất nước ta.
Người đã hai thác triệt để các tấm gương “người tốt, việc tốt”, gương các anh
hùng, liệt sĩ, gương các vị tiền bối, cha ông trong lịch sử, từ chung đến
riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ khác....
để dày công xây đắp nền tảng vững chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai là, xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích
xây là con đường để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc được Hồ Chí Minh
khẳng định và vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ đạo
thực hiện. Xây dựng đạo đức mới là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, gay
gắt, tinh vi, diễn ra trong mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể và từng con
người, vì thế nguyên tắc trên là một đòi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt
để, không được né tránh, đặc iệt với cuộc chiến đấu chống cái ác, cái xấu, sự
thoái hóa, biến chất hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi người, trong từng gia đình, từng
giới, tập thể, cộng đồng, làng xóm, trường học và toàn xã hội. Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến công việc này, đến việc tạo ra môi trường đạo đức trong
sáng, lành mạnh cho con người, cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vươn lên tự
nguyện của con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng được
năng lực tự trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, cái xấu,
cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ Chống giữ vị trí đặc
biệt quan trọng để tạo môi trường cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng
định được cái mới về đạo đức đang hình thành và phát triển trong cuộc đấu
tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu, cái phản động và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm,
những căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê
gớm của chúng đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Người đã
quy những tệ nạn đó vào ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu và
Người coi đó là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh
của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”,
phá từ trong phá ra. Người khẳng định dứt khoát, phải kiên quyết chống lại
những tệ nạn đó. “Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư
luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một
đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ”.
Tạo ra được một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực
tiếp vào quá trình xây và chống là con đường hiệu quả nhất trong các cuộc vận
động xây dựng đạo đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí
Minh đã dày công chỉ đạo và thực hiện.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày,
bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện, bề bỉ, hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện, càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tượng
mà đến nay, chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những
người trong lúc đấu tranh thì trung thành, không sợ nguy hiểm, cực khổ... có
công với cách mạng, song đến khi có “ít quyền họn trong tay thì đâm ra
kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quang liêu... mà biến thành
người có tội với cách mạng”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay,
chỗ dở, cái xấu, cái tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân mình,
trong lòng mình. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng và nhân văn để phát
triển cái thiện, đẩy lùi cái ác trong mỗi con người và đặc biệt quan trọng là
từng người phải rèn luyện, tu dưỡng, dám đấu tranh với chính mình để làm cho
“phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng.
4. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng,
toàn dân ta một nhắn gửi cực kỳ sâu sắc về thời kỳ đất nước ta bước vào xây
dựng và đổi mới sau khi giành được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc.
Người cho rằng, đó là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống
lại những gì đã củ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện mới với những
biến động to lớn, sâu sắc, phức tạp và khó lường. Chúng ta đã có đường
lối đổi mới được thực tiễn kiểm nghiệm 16 năm qua là đúng hướng và đúng đắn.
Mặc dầu vậy, chúng ta đang đứng trước rất nhiều những vấn đề mới, thách thức
mới. Do tác động cực kỳ phức tạp, nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế,
xã hội, nên vấn đề đạo đức đang trở thành ột trong những vấn đề bức xúc nhất
của toàn Đảng và toàn dân, có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo
và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tác động tiêu cực đến toàn bộ nền đạo
đức xã hội mà chúng ta đã dày công xây dựng nhiều thập kỷ qua.
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang
đòi hỏi phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức
xã hội. LÀM được hai hiệm vụ trên cũng chính là thực hiện trung thành với
những khát vọng và di huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho
Đảng ta, dân tộc ta. Trở về và thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh,
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới
trong cuộc đấu tranh vì một nền đạo đức Việt Nam ngang với tầm vóc của dân tộc
và thời đại, thấm sâu những tư tưởng lớn của Người về đạo đức mới, đạo đức
cách mạng.
|
Chuyên
đề 09
TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CHĂM LO, BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO
ĐỜI SAU
I/ Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh vềchăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ với cách mạng và sự
phát triển của dân tộc.
- Thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách
mạng, của dân tộc.
+ Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc
nhở: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám
thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” . Cũng năm 1925,
khi truyền bá tư tưởng cách mạng cho dân tộc, Hồ Chí Minh chọn đối tượng đầu
tiên là thanh niên và Người tập hợp họ trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên.
+ Ngay ngày khai trừơng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí
Minh căn dặn thế hệ trẻ:“Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông
mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tời đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc nam châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
em”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh
niên: “Người ta thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do
các thanh niên”.
- Thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch
sử đó.
+ Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho
xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình,
phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”.
+ Với tuổi nhi đồng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nay các cháu là
nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các
cháu đoàn kết thì thế giới hòa bìnhvà dân chủ, sẽ không có chiến tranh.
Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm
được việc gì có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”
- Trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định, thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì
thế hệ đi trướng, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy trong Di
chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau:
- Truyền thống dân tộc:
+ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam ta có truyền
thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dân ta vì trọng đạo làm người mà tôn sư
và coi trọng giáo dục. Mục tiêu là học để làm người, để trở thành tài. Phương
châm giáo dục truyền thống là “Tiên học lễ, hậu học văn” và “cần khổ học”.
+ Hồ Chí Minh hấp thụ truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
của dân tộc ngay từ cái nôi gia đình và quê hương. Xứ Nghệ tuy đời sống vất
vả nhưng rất hiếu học, thời nào cũng sản sinh người hiền tài. Hồ Chí Minh ảnh
hưởng sâu sắc tấm gương kiên trì học tập của người cha, tấm gương nhà giáo
mẫu mực của ông ngoại.
- Sự khổ công học, khổ công luyện ngay từ nhỏ theo truyền thống
dân tộc và gia đình và trong suốt cuộc đời của Người.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa, những tri thức của
giáo dục phương Đông từ nhỏ và không ngừng bồi đắp thêm cho mình. Sau khi đi
khắp thế giới trở về nước, Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở mọi người hãy nhớ
lời Khổng Tử dạy “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
+ Hồ Chí Minh đi nhiều, học nhiều, tiếp xúc với văn minh và nền
giáo dục phương Tây, thấy rõ mối quan hệ giữa học đi đôi với hành, lý luận
kết hợp với thực tiễn.
- Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của
chủ nghĩa Mác-LêNin về giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ.
+ Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Bộ phận giác ngộ nhất của giai
cấp công nhân nhận thức rất rõ ràng tương lai của họ và do đó tương lai của
cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang
lớn”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc trước hết phải thức
tỉnh thanh niên”.
+ Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: “Không học thì không trở
thành người cộng sản được”, Hồ Chí Minh nói: “Đốt nát cũng là kẻ địch”. “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, và người cán bộ cách mạng Việt Nam phải nhớ:
“cán bộ phải có văn hóa làm gốc”, vì “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất
định phải có học thức”; và khi “chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển
của khoa học và kỹ thuật” thì đó là “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Vì vậy “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”.
II. Những nội dung chính cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:
1. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân.
- Tố cáo thực dân Pháp thực thi ở Việt Nam chính sách ngu dân.
+ Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí Minh tố
cáo: “Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm
thắm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng
rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để”.
+ Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp cấu kết với phong kiến hạn
chế giáo dục và thực hiện giáo dục nhồi sọ làm hư hỏng các thế hệ trẻ Việt
Nam. Người viết: Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đã dùng giáo
dục nô lệ để nhồi sọ thanh niên ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng.
- Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện
nền giáo dục cách mạng. Nhưng “trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng của
giáo dục thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rồi đời
sống lao động và đầu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp; học theo lối
nhồi sọ”.
2. Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào
tạo trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Giáo dục là bước đầu tiên.
+ Sau hơn một tháng đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh xác định: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí” 1,
vì “Nuớc nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” 2.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán
bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì
đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu.” 3.
- Xây dựng nền giáo dục kháng chiến.
Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để
phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà”4.
- Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học
tốt.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định rõ: “Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục
của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”1.
Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi
đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải được nâng cao, giáo
dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng,
trong đó đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ.
3. Mục đích của giáo dục là chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng.
- Đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc.
Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”2.
Cụ thể là nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo con em những người lao động
thành “những người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lục sẵn só của các em”.
- Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất
nước .
Về nhà trường, Người nói: “Trường học của chúng ta là trường học
của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ
tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của
chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến.”1
- Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.
+ Với các cháu thiếu nhi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách dạy trẻ, cần
làm cho chúng biết: Yêu tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ
luật, biết vệ sinh, học văn hoá”2. Đó chính là con đường “làm cho
con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt và mai sau là những
công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ xã hội
chủ nghĩa”.
+ Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tinh
thần yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng
đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng
và nhân dân giao cho”3.
+ Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng
giáo dục họ để “làm việc, làm người,làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể,
“giai cấp và nhân dan, Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt mục đích, thì phải
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”1.
4. Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách
toàn diện.
- Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải
chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa,
kỹ thuật, lao động và sản xuất”2; “thành những người thừa kế xây
dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”3.
- Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được
trong bồi dưỡng giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964 Người nói:
“Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức
cách mạng. Đó là cái gốc, là rất quan trọng”4; “Trên nền
tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng
cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thựcgiải
quyết các vấn đề do cách mạng nước ta và trong một thời gian không xa, đạt
những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”1.
- Bồi dưỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể,
mỹ”. Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Giáo dục toàn diện, nhưng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối
tượng.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và
nhi đồng (ngày 30/10/1955) Người đã chỉ ra: “Mỗi một cấp giáo dục
cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này”:
+ Đại học thì cấn kết hợp lý luận khoa học với
thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết
hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng
nước nhà.
+ Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những
tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ
xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu
nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.
Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của
người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
5. Phương châm giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh.
- Học đi đội với hành, giáo dục gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí
Minh viết: “Đối riêng với các em lớn, …Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp
nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến tuổi phải
gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường,
tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến
sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”2.
Với các em nhỏ, Người khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành
một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau
đi giúp đồng bào”3.
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương: “Chúng ta cần phải
có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc
cho các trường”1.
+ Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo
dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người
nhắc nhở: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ,
gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”2.
- Phối hợp nhà trường – xã hội – gia đình.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một
phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường được tốt hơn”.
Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết:
“Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường
giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng
hái giúp ích nhân dân”3.
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế
hệ trẻ, nhất là Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: “Trường học, gia
đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ,
hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn
nắn, sửa chữa. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt
chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn
đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu.
Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải
kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”. Đồng thời
thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị
em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt để cho học sinh ăn
no, học tốt.
+ “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy
đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán
bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”1.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.
Người dạy: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc,
thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa”1;
“Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến
và kiến quốc”2.
- Giáo dục là một khoa học.
Người nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học” do vậy, cách dạy
trẻ “phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ
trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”. Nhiều
thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một triệu chứng
già sớm nên tránh)”3; ở bậc tiểu học, “cách dạy phải nhẹ nhàng và
vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý
giữ gìn sức khỏe của các cháu”4.
|
Chuyên
đề 10
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, CÁN
BỘ, ĐẢNG VIÊN VỪA LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, VỪA LÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH
CỦA NHÂN DÂN
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những luận điểm rất quan
trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng
Việt Nam đến thắng lợi.
- Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. 1
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh tế - xã
hội và giai cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp trong Cách mạng Việt Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính
đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp
nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực
phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai
cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân,
của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết
“Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dươngvào đầu năm
1930”. 2 Điều
này thể hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm
vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để
vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc. Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản,
nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết
để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết
phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo
công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
- Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”, Hồ
Chí Minh khi thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào
cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Người về việc
gắn Đảng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, gắn giai cấp với
dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
- Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh còn
đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng định:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam” 1.
Năm 1961, luận điểm đó được Người nhắc lại: “Đảng ta là đảng của giai cấp,
đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. 2
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của
dân tộc, Người đã hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng
thời phê phán những quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mạng
lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ
vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác đi với công nông tạo thành sức mạnh
to lón của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng
không phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở
nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của
Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc
tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm
cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một câu
của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…chỉ
có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm
cách mệnh tiền phong”.1 Người
cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.2
- Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa
Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.3
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ Chí Minh không
có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của
chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và
nhân loại.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên
tác của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
- V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để
phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng
sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung
dân chủ.
- Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không
biến Đảng thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức của Đảng.
- Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống
nhất với nhau trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của
tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều
kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi
tiền đánh thì chỉ như một người”.4
- Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ
ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là
một nghĩa vụ của một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy,
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.” 5
- Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân
chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội,
mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế
độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều
người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do dó hiểu
được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch
đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới
chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại
vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi
không ai đóng cửa chùa”.
- Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ
bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn
xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi
với nhau” 1.
- Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập
trung” 2
Ba là, nguyên tắc tự phê
bình và phê bình:
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy
luật phát triển của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong
Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê
bình và phê bình”. 3
- Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng
viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội
bộ hơn.
- Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của
Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước
giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình
là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 4.
- Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học
cách mạng, mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp
bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và
tự phê bình”.5 .
Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân
thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí
thường yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật
nghiêm minh và tự giác.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm
minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô
địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của
cán bộ, đảng viên.”
- Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ
chức Đảng, tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên
đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của đảng viên
về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương,
nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt
Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng
phải nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối
không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề
này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng
kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân
dân và của cơ quan chính quyền cách mạng” 2.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết,
thống nhất trong Đảng.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một
nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành
được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
- Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là
nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình” 3
- Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là
đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất
hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
- Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ
lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên,
đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn
kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ
giữa các cán bộ lãnh đạo”. 1
- Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu:
phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê
bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô,
lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh
lợi.
6. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của
nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và
dân.
- Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn
bómáu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có
vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách
mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người
nói: “Với tất cả sự khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào
rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
- Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau.
Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
- Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy
tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng
trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây
dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì
của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên
dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. đảng cũng phải
lấy dân làm gốc.
7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch,
vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu
và nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng
với danh hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức
cách mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham
ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 1.
Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và
mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” 2.
Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh
hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát
huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện
thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh
coi việc xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng.
Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có sức mạnh rất
to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức
phá hoại rất ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất
rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền
lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực,
lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh
đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới
Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến
chất gây ra.
- Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn
toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng,
làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ
Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” 3
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí
Minh thực sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn
kiểm nghiệm, khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế
giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng
sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và
Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những việc
làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong tình hình mới.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét