CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Lý luận về liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác là một
trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh
và Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đã góp
phần to lớn tạo nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và những
thành quả rất quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay,
Việt Nam
đang tiến hành công cuộc đổi mới, vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân với
nông dân và trí thức là nền tảng của xã hội. Đảng ta coi liên minh này có vị
trí đặc biệt quan trọng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
I.
CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp
a) Cơ cấu
xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp
- Quan hệ xã hội: Quan hệ giữa người và người hình thành trong các quá trình của đời
sống xã hội.
Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ
thuộc, tác động lẫn nhau, sự tác động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn
mang tính cộng đồng.
- Cơ
cấu xã hội là
tất cả các cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn
nhau của các cộng đồng người ấy tạo nên.
Như vậy, cơ cấu xã hội là một tổ hợp đa
dạng và phức tạp của các phân hệ cơ cấu, tuỳ theo góc độ nghiên cứu người ta có
thể phân cơ cấu xã hội thành các loại hình chủ yếu sau:
+
Cơ cấu xã hội - giai cấp, là phân hệ cơ cấu trung tâm cơ bản nhất của cơ cấu xã
hội trong xã hội có giai cấp.
+ Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp,
là sự phản ánh quá trình phân công lao động xã hội giữa các ngành nghề trong xã
hội thành lao động trí óc, lao động chân tay...qua đó giúp ta có thể hiểu được
trình độ phân công và hợp tác lao động trong xã hội ở từng thời điểm cụ thể.
+ Cơ cấu xã hội - dân số (cơ
cấu xã hội nhân khẩu), là loại cơ cấu xã hội phân theo giới tính, lứa tuổi nhằm
xem xét quá trình tái sản xuất ra dân cư với số lượng, mật độ...
Ngoài ra còn có cơ cấu xã hội - dân tộc;
cơ cấu xã hội - tôn giáo,v.v.
- Cơ cấu xã hội - giai cấp (cơ cấu giai cấp) là hệ thống các giai cấp và tầng lớp xã
hội tồn tại khách quan, hoạt động hợp pháp trong một chế độ xã hội nhất định,
thông qua những mối quan hệ về sở hữu, về quản lí,.. qua đó phản ánh địa vị chính trị - xã hội... giữa các giai cấp
và tầng lớp đó.
Trong một chế độ nhất định, cơ cấu xã
hội - giai cấp thường gồm:
+ Các giai
cấp cơ bản với tư cách đại biểu cho
phương thức sản xuất đương đại.
+
Các giai cấp và tầng lớp không cơ bản
với tư cách là tàn dư của phương thức sản xuất cũ hoặc là mần mống của phương thức sản xuất tương lai sắp ra đời
trong lịch sử.
- Mối quan hệ giữa các giai cấp được quy
định bởi mối quan hệ của họ trong sản xuất, trong quan hệ kinh tế nhưng lại
được biểu hiện đặc trưng bởi quan hệ chính trị - xã hội liên quan trực tiếp đến
quyền lực của giai cấp và tầng lớp đó.
b. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong xã
hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội -
giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong cơ cấu xã hội, là loại hình
cơ bản có ý nghĩa quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác vì:
- Cơ cấu xã
hội – giai cấp phản ánh bản chất của chế độ xã hội; quy định địa vị và lợi ích
kinh tế, xã hội của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội mà các phân hệ cơ cấu xã hội
khác không phản ánh được.
- Cơ cấu xã
hội - giai cấp là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa chế độ xã hội
này với chế độ xã hội khác và sự biến đổi của nó sẽ quy định toàn bộ sự biến
đổi của cơ cấu xã hội.
- Cơ cấu xã
hội - giai cấp quy định bản chất và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu
xã hội khác.
Tóm lại, cơ cấu giai cấp có vị trí quan trọng trong cơ cấu xã hội.
Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hoá vị trí của nó. Vì trong xã hội, ngoài cơ cấu
giai cấp còn có các cơ cấu khác mà con người phải sống và phụ thuộc với những
cộng đồng đó như nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc,... Giai cấp tư sản hiện đại
đang tìm mọi cách để phủ nhận cơ cấu giai cấp. Họ cho rằng cách mạng khoa học -
công nghệ sẽ làm mất ranh giới giai cấp. Mục đích của họ là muốn phủ nhận giai
cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ cấu giai cấp là do
cơ cấu kinh tế qui định, sự tồn tại của nó là hoàn toàn khách quan.
c. Đặc điểm của cơ cấu xã hội giai
cấp trong thời kì quá độ lên CNXH
*
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội - giai cấp có những đặc
điểm cơ bản sau:
-
Tương ứng với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu xã hội -
giai cấp đa dạng, phức tạp không thuần nhất và luôn biến động ngay trong từng
thành phần của cơ cấu và cả toàn bộ cơ cấu.
- Quan hệ giữa các giai cấp, tầng
lớp xã hội là mối quan hệ phức tạp nhiều chiều; trong đó nổi lên hai mối
quan hệ cơ bản:
+ Quan hệ
đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau giữa một bên là giai
cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức với giai cấp
tư sản;
+ Quan hệ
liên minh hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản thống nhất với
nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
*
Ở Việt Nam; kiểu quá độ của chúng ta là quá độ gián tiếp, theo con
đường “phát triển rút ngắn” chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa... tương ứng với thực trạng đó, về cơ cấu xã hội -
giai cấp ở nước ta hiện nay càng mang tính đa dạng và phức tạp hơn,
được thể hiện như:
- Bao gồm nhiều
giai cấp, tầng lớp xã hội vừa có mối quan hệ liên minh hợp tác và vừa đấu tranh
với nhau để quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong đó, liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo là cơ sở nền tảng xã hội ở nước ta.
- Tính đa
dạng, phức tạp của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng thể hiện bởi chính
ngay sự biến đổi của mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội ta.
Tính đa dạng vì kinh tế có các thành
phần kinh tế thì cơ cấu xã hội - giai cấp cũng tương ứng; có tầng lớp giai cấp cơ bản và có cả không cơ bản. ở nước ta hiện nay, bên cạnh các giai
cấp, tầng lớp cơ bản (công nhân, nông dân, trí thức...), những năm gần đây đã
hình thành những tầng lớp xã hội, những nhóm xã hội mới (những nhà tư bản,
những bộ phận hay tầng lớp tiểu thương; tiểu chủ...)
-
Không thuần nhất: các giai tầng phân bổ có công nhân nhà nước, công nhân làm
doanh nghiệp tư bản, nông dân....
-
Luôn biến động: do kinh tế quyết định vì kinh tế luôn biến động. (nhưng phải
giữ vững định hướng XHCN)
Thực
tiễn: tính đa dạng, phức tạp của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta
cũng thể hiện bởi chính ngay sự biến đổi của mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã
hội ta. Có thể nói rằng, cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội do thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại thì cơ cấu xã
hội - giai cấp cũng đang trong quá trình vận động biến đổi rất phức tạp.
Hiện nay ở nước ta đang diễn ra quá
trình phân hoá giữa các giai tầng và ngay chính trong bản thân mỗi một giai
tầng. Trong giai cấp công nhân cũng có công nhân làm việc trong các xí nghiệp
quốc doanh, có những công nhân làm việc trong những xí nghiệp tư bản tư nhân
hoặc có vốn đầu tư của nước ngoài, có công nhân mở xưởng sản xuất...
Tính đa dạng, phức tạp trong cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng thể
hiện ở chỗ, các giai cấp tầng lớp xã hội trong xã hội ta có quan hệ với các
thành phần kinh tế và do các thành phần kinh tế quy định, cho nên mỗi thành
phần kinh tế thường có một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định đại biểu cho nó.
Tuy nhiên, không phải cứ
tương ứng với mỗi thành phần kinh tế là chỉ có một giai cấp hoặc tầng lớp nhất
định; mà ngược lại, ở nước ta hiện nay một giai cấp, tầng lớp xã hội thường có
mặt trong nhiều thành phần kinh tế với những quan hệ đan chéo rất phức tạp.
Từ sự phân tích trên, cho
chúng ta thấy, trong điều kiện của nước ta hiện nay thì sự phân định ranh
giới giữa các giai tầng là chưa rõ ràng và vì vậy cũng rất khó khăn cho việc
nhận diện chính xác tính chất giai cấp của các nhóm xã hội.
Chúng ta thừa nhận rằng
sự phân hoá, phân tầng xã hội trong điều kiện đất nước đang trong thời kì quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu, thế nhưng quá trình
phân hoá đó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cho công tác quản lí xã hội
nhằm giữ vững định hướng XHCN ở nước ta; sự phân hoá sẽ dẫn tới sự phân chia
đẳng cấp trong xã hội, một hiện tượng trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, để giữ vững định hướng XHCN, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải ban hành các
chủ trương chính sách đúng đắn tạo điều kiện cho các tầng lớp xã hội cùng làm
giàu và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đặc biệt là các chính
sách của Đảng, Nhà nước phải thực sự góp phần làm hạn chế, khắc phục được sự
khác biệt xã hội nhưng lại không làm triệt tiêu động lực của các giai tầng
trong quá trình xây dựng đất nước.
2. Xu hướng và tính quy luật của quá
trình biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
a. Những xu hướng chủ yếu
Quá trình biến động của cơ cấu xã hội
- giai cấp trong quá trình xây dựng CNXH nói chung sẽ diễn ra theo xu hướng chủ
mang tính quy luật, không tách rời nhau và được thể hiện trên các lĩnh vực chính
trị, phát triển LLSX, hoàn thiện QHSX, nâng cao đời sông vật chất và tinh thần.
Cụ thể:
- Một là, sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp và tầng
lớp xã hội trong quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này được thực hiện
thông qua việc dần dần hoàn thiện QHSX XHCN từ thấp lên cao. Với chủ chương
phát triển nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá chế độ sở hữu, tồn tại nhiều
thành phần kinh tế liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh ..sẽ tạo điều
kiện cho các giai tầng xã hội tồn tại bên nhau, đan xen lẫn nhau, xích lại gần
nhau cùng phát triển.
- Hai
là, sự xích lại gần nhau
về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng lớp. Xu hướng này thể hiện
thông qua việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, ứng dụng những
thành tựu mới của nó vào quá trình phát triển LLSX, rút ngắn khoảng cách của sự
khác biệt giữa các lực lượng xã hội trong quá trình lao động. Từ đó, tạo điều
kiện cho xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.
- Ba là, sự
xích lại gần nhau trong quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng giữa các giai cấp,
tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến việc thực hiện và ngày
càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
- Bốn là, sự xích
lại gần nhau trong tiến bộ về đời sống tinh thần giữa các giai
cấp, tầng lớp. Xu hướng này được thực hiện một cách trực tiếp thông qua
cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Từ đó tác động đến sự
xích lại gần nhau và xoá bỏ dần mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay.
Trong thực tế, những xu hướng biến
đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp nói trên không tách rời nhau, nhưng các khuynh
hướng đó thể hiện ra cũng không đều nhau trong các giai đoạn khác nhau và ở
những vùng khác nhau.
b. Những vấn đề có tính
quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Cơ cấu xã hội C - giai cấp trong
quá trình xây dựng CNXH luôn ở trong trạng thái không ngừng biến động; sự biến
đổi ấy thường diễn ra theo những quy luật như:
- Một là, sự
biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp gắn liền và chịu sự quy định bởi sự biến
đổi của cơ cấu kinh tế (cơ cấu kinh tế ngành, nghề; cơ cấu các thành phần
kinh tế; của cơ cấu hành chính, kinh tế – xã hội...)
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng, nền sản xuất xã hội và cơ cấu xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau,
nền sản xuất xã hội sẽ quy định cơ cấu xã hội và ngược lại, cơ cấu xã hội là sự
phản ánh nền sản xuất xã hội và tác động trở lại nền sản xuất xã hội. Cho nên
trong thời kì quá độ, với nền kinh tế nhiều thành phần thì tất yếu sẽ là một cơ
cấu xã hội - giai cấp đa dạng, phức
tạp; mặt khác, sự hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp mới sẽ tác động trực
tiếp tới sự phát triển cơ cấu kinh tế làm cho nó phát triển đúng hướng XHCN.
- Hai là, quá
trình biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội - giai cấp
mới là một quá trình liên tục trong suốt thời kì quá độ.
+ Ở giai đoạn đầu, cơ cấu xã hội – giai
cấp biến đổi nhanh chóng, mạnh mẽ, có những yếu tố mang tính tự phát (VD: sản
xuất bung ra với nhiều thành phần kinh tế)
+ Ở giai đoạn sau sẽ dần dần ổn định khi
nền kinh tế ổn định, lực lượng sản xuất phát triển và quá trình thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH có kết quả.
- Ba là,
cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi và
phát triển trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên minh (đặc biệt là liên minh công – nông – trí), xích
lại gần nhau, tiến tới từng bước xoá bỏ dần những quan hệ bóc lột giữa người
với người.
+
Đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp bóc lột.
+ Liên minh giai cấp để khắc phục sự khác biệt giai
cấp giữa các giai cấp lao động.
+
Đấu tranh giai cấp và liên minh để đi đến xoá bỏ sự phân chia giai cấp, tiến
tới một xã hội không có giai cấp.
- Bốn là,
sự biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp mang tính đa dạng và thống nhất.
+ Trong thời kỳ quá độ ở
Việt Nam, tính đa dạng thể hiện ở chỗ
không những còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau mà còn
thể hiện ở cả trong kết cấu rất đa dạng của từng giai cấp, tầng lớp, nhóm xã
hội;
+ Tính thống nhất thể hiện thông qua xu hướng
phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân và đặc biệt
thông qua vai trò của khối liên minh công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo.
II.
LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
1. Tính tất yếu của liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
a. Khái niệm liên minh GCCN với GCND
và tầng lớp TT
- Liên minh
là gì? Là khối liên kết các lực lượng nhằm
phối hợp hành động vì mục đích chung.
- Liên minh công - nông - trí thức: Là hình thức hợp tác đặc biệt giữa GCCN với GCND và
tầng lớp trí thức trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ CNTB xoá bỏ mọi áp bức bóc
lột và xây dựng thành công CNXH.
+ Là hình thức hợp tác đặc biệt: tức
là toàn diện, bền vững, lâu dài trong suốt tiến trình xây dựng CNXH
+ Mục đích: tạo động lực cách mạng to
lớn để đưa cách mạng XHCN đến thắng lợi.
b. Chủ
nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của liên minh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Quan điểm
của C. Mác và Ph. Ăngghen: trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp cuối thế kỉ XIX,
hai ông đã khái quát thành một hệ thống lí luận khoa học về cách mạng vô sản. Các ông đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thất
bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức liên minh
được với "người bạn đồng minh của mình" là giai cấp nông dân. Vì vậy,
trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng
này đã trở thành "bài ai
điếu".
- Quan điểm của V.I. Lênin: Ông đã vận dụng và phát
triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen trong điều kiện mới. Thành công của
Cách mạng Tháng Mười là minh chứng cho
thắng lợi của tư tưởng đó. Trong thời kì quá độ, V.I. Lênin cho rằng không chỉ
liên minh với công - nông, mà còn liên minh với các giai tầng khác. Người coi
liên minh này là "Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối
liên minh giữa giai cấp vô sản với nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được
vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước" (1). V.I. Lênin đặc biệt coi trọng khối liên minh này trong
những nước nông nghiệp mà đại đa số là nông dân. Qua liên minh này, lực lượng
đông đảo nhất trong xã hội là nông dân được công nhân tập hợp vì mục tiêu chung
và lợi ích của toàn dân tộc.
- Tính tất yếu của liên minh công - nông trong thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội được xem xét dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng của chuyên chính
vô sản thì liên minh này đã tập thu hút và tổ chức được lực lượng sản xuất cơ
bản, đông đảo và cách mạng nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xét về nguyên tắc lãnh đạo của chuyên chính vô sản
thì giai cấp vô sản là giai cấp duy nhất thông qua đảng của mình để lãnh đạo hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nhưng vai trò đó chỉ được thực hiện với điều
kiện tổ chức tốt liên minh công - nông - trí thức và các giai tầng khác trong
xã hội.
Thứ ba, xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là đảm bảo quyền lợi của toàn thể nhân dân, dân tộc mà đại đa số
là công - nông và những người lao động khác.
Thực tiễn quá trình cách mạng
thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng minh là phải có liên minh mới giành
được thắng lợi.
Giai đoạn hiện nay liên minh đó không những
là tất yếu khách quan mà còn là vấn đề cấp bách. Đồng thời còn tạo ra bộ mặt
mới, chất lượng mới, là cơ sở cho đại đoàn kết dân tộc.
c) Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức.
Hồ Chí
Minh cho rằng "Công, nông là gốc của cách mệnh." Muốn xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc thì phải xác định rõ nền tảng của khối đại đoàn kết đó là
những lực lượng nào. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như
cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết
với các tầng lớp nhân dân khác" (1).
Đảng
Cộng sản Việt Nam đã cụ thể hoá quan điểm này vào điều kiện nước ta được thực hiện qua từng giai đoạn
cách mạng:
- Trong Đại hội lần thứ II tháng 2 năm 1951, Đảng đã
chỉ rõ "Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là chính quyền dân
chủ của nhân dân... lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí óc làm
nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo" (1).
- Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong
công cuộc đổi mới, liên minh này được đặc biệt coi trọng. Điều này được thể
hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ
"Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là Đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo."(2)
Tóm lại, liên minh công - nông - trí thức là quan điểm, đường
lối của Đảng là vấn đề chiến lược của cách mạng được thực hiện nhất quán, được
kiểm nghiệm và phát triển phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta và xu thế của
thời đại.
2. Vai trò của liên minh công - nông - trí thức.
Liên minh công - nông - trí thức có tầm quan trọng đặc
biệt trong cách mạng XHCN, là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong giành, giữ
chính quyền; trong cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Lênin khẳng định rằng,
liên minh công - nông - trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.
Bởi vì, liên minh là điều kiện căn bản để giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với toàn xã hội; là cơ sở chính trị xã hội vững chắc của
Nhà nước XHCN; là lực lương dường cột bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN.
3. Đặc điểm của công nhân, nông dân, trí thức
Việt Nam
a. Đặc điểm của giai cấp công
nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam không những có đầy đủ
những tố chất của giai cấp công nhân hiện đại mà còn có những đặc điểm riêng
của mình là:
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến có nguồn gốc chủ yếu từ giai cấp nông dân bị bần cùng hoá.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản nên ít chịu ảnh hưởng
của hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng cơ hội chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một
dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm bị nhiều tầng
áp bức bóc lột nên động cơ và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân
được nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành
trong không khí sục sôi của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX.
- Giai cấp công nhân ra đời vào lúc phong trào cộng
sản và công nhân thế giới phát triển. Tấm gương cách mạng Nga và phong trào
cách mạng ở nhiều nước đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên
nhận lấy sứ mệnh cách mạng mà dân tộc giao phó.
- Sự gắn bó giữa giai cấp công nhân với nông dân Việt
Nam đã hình thành một cách tự nhiên. Sự gắn bó này không chỉ được thực hiện
trong đấu tranh cách mạng mà còn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.
- Giai cấp công nhân Việt Nam sớm có
Đảng, có lãnh tụ lãnh đạo.
b. Đặc điểm của giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động
sản xuất vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,... trực tiếp sử
dụng một số tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù gắn với thiên nhiên là đất, rừng,
biển,... để sản xuất ra nông sản.
- Đặc điểm kinh tế: phương thức sản xuất của nông dân
có đặc thù là phân tán, kĩ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp,... Theo quan
điểm của V.I. Lênin, giai cấp nông dân có bản chất hai mặt. Một mặt, họ là những người lao động. Mặt khác,
họ là những người tư hữu nhỏ. Mặt này là hạn chế của người nông dân (cần phân
biệt tư hữu nhỏ của giai cấp nông dân với tư hữu của các giai cấp bóc lột).
- Đặc điểm xã hội: cơ cấu giai cấp nông dân không
thuần nhất. Vì thế, họ không có sự cố kết về kinh tế và tổ chức.
- Đặc điểm tư tưởng: giai cấp nông dân không có hệ tư
tưởng riêng. Mà hệ tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp nào
thống trị xã hội.
Ở Việt Nam, từ
khi có Đảng Cộng sản, giai cấp nông dân từng bước được giải phóng khỏi sự áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, tư sản, trở thành người chủ xã
hội. Họ đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Trên thực tế,
vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn,
còn nhiều bức xúc nảy sinh (như đất đai, môi trường, rủi ro trong sản xuất nông
nghiệp,...). Vì thế, cần sớm nhận thức đúng và giải quyết kịp thời để nông
nghiệp, nông thôn ổn định, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Đặc điểm của tầng lớp trí thức
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm trí thức là một
"tầng lớp xã hội đặc biệt”, bao gồm những người lao động trí óc phức tạp
và sáng tạo, có trình độ học vấn để hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao
động của mình.
- Đặc điểm
kinh tế - xã hội: trí thức có phương thức lao động đặc thù, chủ yếu là lao động
trí tuệ cá nhân, có khả năng tư duy độc lập. Hoạt động của trí thức chủ yếu
trong các lĩnh vực: nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và nhân văn, văn học nghệ thuật, lãnh đạo, quản lí,... Sản phẩm lao động
trực tiếp của trí thức là những giá trị lí luận, lí thuyết khoa học,... Những
giá trị này có tác dụng quyết định đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm,
tốc độ tăng trưởng kinh tế,... Ngày nay, khoa học - công nghệ đang trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, vì thế vai trò của đội ngũ trí thức càng quan trọng hơn bao giờ hết.
- Về tư
tưởng: trí thức không có hệ tư tưởng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Từ
thời kì chiếm hữu nô lệ đến nay, vai trò và tư tưởng của trí thức đều phụ thuộc
vào giai cấp chính trị - xã hội cầm quyền.
- Thực tế
lịch sử đã chứng minh rằng:
+ Trí thức
thời nào cũng giúp giai cấp thống trị khái quát lí luận để hình thành hệ tư
tưởng.
+ Khi xã
hội có giai cấp, có dân tộc, trí thức bao giờ cũng là trí thức của giai cấp,
dân tộc xác định. Tính giai cấp của trí thức thể hiện ở chỗ họ đem vốn tri thức của mình phục vụ cho giai cấp
nào trong xã hội. Trong xã hội tư hữu, đa số trí thức bị bóc lột (mức độ bóc
lột khác với các giai tầng khác). Vì thế, trí thức gắn bó với dân tộc, với nhân
dân, đấu tranh cho một xã hội hoà bình, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ.
+ Từ khi có
Đảng Cộng sản lãnh đạo, trí thức có điều kiện trở thành lực lượng cách mạng
quan trọng và có những đóng góp to lớn. Hồ Chí Minh rất coi trọng đội ngũ lao
động trí óc. Ngay trong thời kì kháng chiến, Người cho rằng ngoài việc quân sự,
còn phải chăm lo phát triển kinh tế "Cho nên, cần có những người chuyên
môn thành thạo về công nghệ và nông nghiệp" (1).
Tóm lại, giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động, lực
lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm và vai trò xác định. ở một nước
nông nghiệp lạc hậu như nước ta, ba lực lượng này được tổ chức lại thì cách
mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nhất định thành công.
4. Nội dung cơ bản của liên minh công -
nông - trí thức trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a.
Nguyên tắc cơ bản của liên minh:
- Phải kết
hợp đúng đắn và hài hoà giữa các lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế.
- Phải phát
hiện và giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, nếu không sẽ triệt tiêu động lực, làm
rạn nứt khối liên minh.
- Phải đặc
biệt chú ý giai cấp nông dân vì họ chiếm đa số. Đối với giai cấp nông dân, họ
thường kiểm nghiệm những lợi ích thiết thân hàng ngày. Nếu không được đáp ứng
kịp thời, công bằng, họ dễ mất lòng tin, theo V.I Lênin "Họ sẽ đi theo
những mạch kinh tế ngầm với tư thương, tư sản, kết quả là chúng ta sẽ mất một
cơ sở kinh tế". (2)
b. Nội dung cơ bản của liên minh
- Nội dung chính trị của liên minh
+ Xuất phát
từ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lập trường chính trị, tư
tưởng của giai cấp công nhân.
+ Nguyên
tắc về chính trị của liên minh là do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Nội dung
chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống
chính trị trên phạm vi cả nước theo hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Cụ thể là: đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức
chính trị của giai cấp công nhân trong lĩnh vực công nghiệp, các cơ sở của giai
cấp nông dân ở nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học - công nghệ. Nội dung
cấp thiết là triển khai việc thực hiện "Qui chế dân chủ cơ sở", nhất
là ở nông thôn, nhằm khắc phục các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, đảm bảo
quyền dân chủ cho khối liên minh, đặc biệt là giai cấp nông dân - một bộ phận
chiếm đa số trong xã hội ta hiện nay.
- Nội dung kinh tế của liên minh
Đây là nội
dung cơ bản có ý nghĩa quyết định nhất, là cơ sở vật chất - kĩ thuật vững chắc
của liên minh trong thời kì quá độ. Những vấn đề cơ bản cần quan tâm trong nội
dung kinh tế là:
+ Cần giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích kinh tế trong
khối liên minh được thể hiện qua thị trường và các hoạt động sản xuất, kinh
doanh để lợi ích kinh tế trở thành động lực nội tại thúc đẩy các chủ thể kinh
tế trong hoạt động sản xuất vật chất.
+ Xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức
và toàn xã hội. Nội dung cơ cấu kinh tế được Đảng ta xác định hiện nay là: công - nông - dịch vụ. Cơ cấu này là
điều kiện để gắn bó hoạt động của công, nông và trí thức. Trong đó, dịch vụ
khoa học - công nghệ là quan trọng. Vì nó tác động trực tiếp đến sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp, tăng sự hội nhập và "từng bước phát triển kinh tế
tri thức". Từ Đại hội VIII, chủ trương chuyển dịch kinh tế được Đảng ta
đặc biệt coi trọng "công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
phát triển toàn diện nông, lâm, ngư...". (1)
+ Đa dạng
hoá các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp, nông nghiệp và
khoa học - công nghệ, giữa thành thị và nông thôn...
+ Khuyến
khích và tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân tự chủ, năng động, hợp tác với
giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức trong sản xuất nông nghiệp.
+ Từng bước
hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đa dạng hoá các hình thức sở hữu,
trong đó sở hữu Nhà nước là chủ yếu. Nhà nước cần có các chính sách, pháp luật
tác động trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong các vấn đề đất
đai, môi trường, vốn khoa học - công nghệ, giải quyết "cảnh kéo giá"
giữa hàng hoá nông sản với hàng hoá công nghiệp, dịch vụ, trợ giá khi cần thiết
cho giai cấp nông dân.
+
Phát huy vai trò của nhà nước (thông qua luật pháp, hệ thống chính sách như: đất dai, khuyến nông, thuế,
sở hữu trí tuÖ,
chính sách khoa học và công nghệ…) mà giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với
công nhân, nông dân, trí thức.
- Nội dung văn hoá - xã hội của liên minh
Những nội
dung chính trị, kinh tế của liên minh xét đến cùng là để thoả mãn nhu cầu vật
chất, tinh thần ngày càng cao của xã hội. Trong nội dung này có mấy điểm cơ bản
sau đây:
+
"Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái". (1)
+ Coi con
người là vốn quí của xã hội, tích cực xoá đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm
cho người lao động, nhất là giai cấp nông dân.
+ Thực hiện
chính sách xã hội đối với những người có công với cách mạng, chính sách đền ơn
đáp nghĩa... (Hiện nay, các đối tượng chính sách chiếm đến 80% ở nông thôn và
trong các gia đình nông dân).
+ Nâng cao
dân trí, đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn để tăng
năng suất lao động, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, góp phần cải thiện đời
sống cho người lao động.
+ Phát huy
và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Chống các tệ nạn xã hội.
+ Mọi qui
hoạch tổng thể của Nhà nước cần gắn với nông nghiệp, nông thôn (đô thị hoá, xây
dựng kết cấu hạ tầng, khu kinh tế kĩ thuật,...) phải tương xứng hợp lí. Cần
quan tâm đến vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số, vùng
căn cứ cách mạng cũ.
Tóm lại, liên minh
công - nông - trí thức ở một nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội như nước
ta là một vấn đề có tính qui luật. Các nội dung trên của liên minh sẽ tạo ra
động lực để các vùng, miền để các giai tầng xích lại gần nhau hơn trên thực tế,
tăng sự bền vững của khối liên minh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Phương hướng nhằm củng cố, tăng
cường liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức ở nước ta hiện nay
Để củng cố tăng cường khối liên minh công -
nông - trí thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải tiến hành đồng
bộ nhiều phương hướng, trong đó nổi lên những phương hướng cơ bản sau:
a. Xây dựng hệ thống chính trị thực sự dân chủ
-
Là phương hướng cơ bản nhất bởi vì:
+
Hệ thống chính trị XHCN là thành quả cách mạng của NDLĐ mà nền tảng là liên
minh C – N – T.
+
Là thể chế chính trị và tổ chức để NDLĐ thực hiện cải tạo XH cũ, XD XH mới phục
vụ lợi ích của chính mình
+
Là cơ sở chính trị đảm bảo quá trình liên minh phát triển đúng hướng
- Yêu cầu
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với toàn XH, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ ở nông thôn hiện
nay.
+ Không ngừng nâng cao
hiệu lực quản lý Nhà nước XHCN. Bảo đảm cho Nhà nước thực sự là của dân – do
dân – vì dân.
+ Củng cố và phát huy vai
trò của các tổ chức chính trị XH
b. Đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước
- Là cơ sở củng cố vững chắc khối liên minh
+ CNH, HĐH là điều kiện
con đường cơ bản để phát triển GCCN cả số lượng, chất lượng, phát triển mạnh
LLSX nâng cao đời sống nhân dân, nền tảng kinh tế bảo đảm vững chắc cho liên
minh.
+ CNH, HĐH tạo tiền đề
điều kiện để xây dựng nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông thôn mới, làm gắn bó
hơn giữa công nhân và nông dân
+ CNH, HĐH nó phát huy
sức mạnh trí tuệ của NDLĐ, đặc biệt là vai trò của trí thức trong xây dựng CNXH,
đồng thời là cầu nối CN – ND – TT.
- Yêu cầu
+ Xác định đúng tiềm năng,
vị trí bước đi của CNH, HĐH
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế
công – nông – KHCN hợp lý cùng nhau phát triển
+ Xây dựng phát triển
GCCN, nâng cao trình độ GCCN, phát huy vai trò của tầng lớp trí thức.
+ Kết hợp đúng đắn sự phát triển của
công nghiệp, nông nghiệp với khoa học và công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, kịp thời ứng dụng những thành tựu của khoa học kĩ
thuật vào sản xuất.
c. Đưa
nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN và xây dựng nông thôn mới.
d. Xây
dựng và thực hiện chiến lược giáo dục và đào tạo phù hợp có hiệu quả
e. Thực
hiện chính sách giai cấp đúng đắn
Câu hỏi ôn
tập
1.Phân tích
xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội?
2.Những cơ
sở để khẳng định tính tất yếu của liên minh công, nông, trí thức trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
3.Phân tích
những đặc điểm của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam
trong mối quan hệ liên minh giữa các giai tầng này?
4.Nêu
nguyên tắc và phân tích nội dung cơ bản của liên minh công - nông - trí thức
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét