Sự ra đời của
giai cấp công nhân Việt Nam cơ bản gắn với quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp những năm nửa cuối thế kỷ XIX. Đó thực chất cũng là
khởi nguồn của quá trình công nghiệp hóa ở một quốc gia nông nghiệp.
Trước khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng (ngày 01-9-1858), mở
màn cho cuộc xâm lược, Việt Nam lúc đó vẫn là một nước phong kiến lạc
hậu với nền kinh tế dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế
về công nghiệp, dịch vụ chưa hề thấy. Xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội
phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và
giai cấp nông dân(2). Khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn
thành vào cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt tay tiến hành công cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà
máy xay xát, rượu bia, vải sợi, điện nước, đồn điền cao su, cà phê… lần
lượt ra đời. Cùng với các cơ sở kinh tế công nghiệp được thành lập, đội
ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên đã ra đời. Họ là những nông
dân Việt Nam bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công nghiệp
bị phá sản. Sự mở rộng quy mô khai thác thuộc địa và phát triển công
nghiệp của thực dân Pháp đã làm cho đội ngũ những người công nhân Việt
Nam ngày càng đông đảo và dần hình thành một giai cấp, mặc dù, thực chất
chỉ mới là giai cấp “tự nó”.
Khi
chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc (1918), thực dân Pháp tiến
hành chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn
hơn trước nhiều lần hòng bù đắp phần nào thiệt hại do chiến tranh thế
giới gây ra. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam phát triển nhanh
chóng. Theo niên giám thống kê của Pháp thì đến năm 1929 số lượng công
nhân trên toàn Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) là 220.000 người. Cùng
với sự tăng lên về số lượng, chất lượng chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề
của công nhân cũng được nâng lên.
Cho
đến trước ngày 19-12-1946 toàn bộ số công nhân ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
có khoảng 100.000 người, trong đó có 25.000 làm việc tại các xí nghiệp,
nhà máy và cơ sở kinh doanh của tư bản Pháp và tư bản ngoại quốc. Công
nhân ở Nam Bộ đông hơn nhưng đã bị phân tán và chuyển hóa khá phức tạp
khi chiến tranh xảy ra. Kháng chiến càng diễn ra ác liệt tại Nam Bộ thì
sự phân tán của đội ngũ công nhân ở đây diễn ra càng mạnh. Tháng
10-1950, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, 5 thị xã, 13 thị trấn
cùng nhiều vùng đất dọc theo giải biên giới dài 750 km gồm 35 vạn dân
được giải phóng, số lượng công nhân trong các vùng do ta kiểm soát tăng
lên đến 346.000 người, trong đó, chủ yếu là thợ thủ công. Càng về những
năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, số lượng công nhân thủ, công
nghiệp càng tăng. Tỷ trọng công nhân công nghiệp (công nghiệp quốc phòng
và công nhân kinh tế quốc doanh) rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10%.
Như
vậy, xét về lịch sử hình thành, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
không phải là sản phẩm trực tiếp của nền sản xuất công nghiệp hiện đại
Việt Nam mà ra đời từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Đại đa số công nhân Việt Nam đều xuất thân từ tầng lớp nông dân với
trình độ lao động giản đơn. Vì thế, có thể nhận định khái quát là giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn so với giai cấp công nhân thế
giới, số lượng ban đầu còn ít và trình độ tay nghề thấp.
Ra
đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh
chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, chân lý của thời
đại: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Sau khi Chiến tranh
thế giới thứ nhất kết thúc, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào
công nhân Việt Nam đã có bước chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công
nhân đã từng bước giác ngộ về địa vị, vai trò của mình trong xã hội,
trong cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra đời của
Công hội đỏ Bắc Kỳ (28-7-1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930)
là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công
nhân Việt Nam từ sự tự phát lên tự giác.
Từ
đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng bước giác
ngộ và hiện thực hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng từ đây,
giai cấp công nhân Việt Nam - thông qua đội tiên phong của mình là Đảng
Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng năm 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết
Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng dân chủ 1936 - 1939 chứng tỏ sự trưởng
thành nhanh chóng, vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam về mặt chính
trị, về ý thức giai cấp, về tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật trong đấu
tranh cách mạng.
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ nguyên
mới cho lịch sử dân tộc, mà còn là dấu mốc đưa giai cấp công nhân và
nhân dân lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao động làm
thuê lên địa vị người làm chủ đất nước. Sự thành công của cuộc Cách mạng
Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai trò lãnh đạo không thể thay thế của
giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong của mình là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho giai
cấp công nhân Việt Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân
Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình.
Trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, đặc biệt là sau gần 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân
Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt
trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan
trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày
càng nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất
lượng và hiệu quả ngày càng cao. Với số lượng chỉ chiếm 21% tổng số lao
động và 11% dân số cả nước, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã đóng
góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước(3).
Tuy
nhiên, trong điều kiện mới hiện nay, bên cạnh những thành tựu thì giai
cấp công nhân ở Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
-
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế;
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn
chế; đa phần công nhân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ
thống, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
-
Ðịa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp
công nhân còn chưa phát huy hết vai trò nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Ðảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không
đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ
đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ
phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Ðảng và tham gia hoạt động
trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, tỷ lệ công nhân là đảng
viên trong tổng số đảng viên của Đảng những năm gần đây đang giảm dần là
một xu hướng rất đáng lo ngại(4).
-
Xu hướng phân hóa gay gắt đội ngũ công nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay càng làm cho việc tập hợp
đội ngũ và nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn
thể xã hội trong giai đoạn cách mạng mới càng trở nên khó khăn. Từ thực
trạng phân hóa giai cấp công nhân nước ta những năm gần đây cho thấy,
bên cạnh các xu hướng phân hóa về số lượng, chất lượng thì các xu hướng
về thu nhập, việc làm đã có tác động khá mạnh đến sự phát triển của đội
ngũ công nhân trong điều kiện mới, vì đây là mặt dễ làm tổn thương đến
đội ngũ những người lao động hiện nay. Kết quả phân hóa trong việc làm
và thu nhập của đội ngũ công nhân nước ta trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng cho thấy bên cạnh đời sống của
một bộ phận công nhân (chủ yếu là bộ phận công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước còn giữ vị thế độc quyền trong nền kinh tế hoặc một bộ
phận nhỏ công nhân có trình độ tay nghề cao...) đã được cải thiện đáng
kể, thì cạnh đó “…lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương
xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của
chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang
có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động
giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài”(5).
-
Tình trạng đình công, bãi công của công nhân, nhất là công nhân trong
các khu chế xuất, các khu công nghiệp trong cả nước những năm gần đây
ngày càng gia tăng và diễn biến theo xu hướng ngày càng phức tạp. Theo
thống kê, năm 2006, cả nước xảy ra 387 vụ đình công, năm 2007 xảy ra 541
vụ(6); Đặc biệt, chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2008 đã có tới gần 650 vụ
tranh chấp lao động, trong đó phần lớn các vụ tranh chấp đều có nguyên
nhân do mức sống của công nhân ngày càng sa sút, mức lương thấp so với
điều kiện sống thực tế(7). Trong nền kinh tế thị trường, nhất là kinh tế
thị trường còn đang ở giai đoạn sơ khai như nước ta hiện nay thì việc
xảy ra hiện tượng đình công, bãi công của công nhân, nhất là công nhân
trong các khu vực kinh tế tư nhân (ở nước ta hiện nay chủ yếu là trong
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) là một xu hướng mang tính tất
yếu và có thể lường trước được. Tuy nhiên, hiện tượng đình công của công
nhân tại các địa phương những năm gần đây ngày càng gia tăng và có xu
hướng diễn biến ngày càng phức tạp đã hàm chứa trong đó những điều bất
cập không chỉ từ việc xây dựng, duy trì mô hình nền kinh tế (kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa) mà còn trong việc tìm ra giải pháp
khắc phục hiện tượng bất cập được nảy sinh từ nền kinh tế ấy. Từ thực
trạng các cuộc đình công của công nhân đang diễn ra ở một số địa phương
nước ta hiện nay cũng cho thấy cần phải có sự đổi mới căn bản về mặt
nhận thức cũng như các giải pháp thực tiễn để xây dựng và phát triển đội
ngũ công nhân.
Những
hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi
lên một số nguyên nhân, như: 1) Mặc dù Ðảng có chú trọng xây dựng giai
cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí,
vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới; 2) Đời sống của một bộ
phận công nhân còn gặp nhiều khó khăn; 3) Công tác giáo dục, nâng cao
giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho giai cấp công nhân chưa được
chú trọng đúng mức; 4) Công tác phát triển Đảng cho đội ngũ công nhân
trong hệ thống các doanh nghiệp trong cả nước, nhất là khối doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, bất cập; 5) Công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân chưa được
quan tâm và đầu tư thỏa đáng, dẫn đến còn tình trạng nhìn nhận chưa đúng
mức về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế; 6) Việc tổ
chức và tham gia hoạt động của các tổ chức công đoàn, các tổ chức đoàn
thể và chính trị - xã hội trong các hoạt động của đội ngũ công nhân còn
mang nặng tính hình thức, hiệu quả chưa cao...
Cố
nhiên, để xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn
hiện nay xứng đáng với vai trò là “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh…” như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khóa X khẳng định đòi hỏi có nhiều giải pháp cấp
bách, trong đó theo chúng tôi cần chú trọng vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất,
cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về giai cấp công
nhân, nhanh chóng đưa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” vào cuộc sống.
Thứ hai,
tạo tiền đề sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao ở tất cả các ngành
kỹ thuật. Trước hết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn… Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường.
Thứ ba, đẩy
mạnh tri thức hóa công nhân. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền
lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân”(8).
Thứ tư,
tập trung lãnh đạo nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện những quy định của pháp luật về chế độ,
chính sách cho công nhân. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong
việc kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước trong
các doanh nghiệp; xử lý nghiêm những trường hợp cố tình vi phạm.
Thứ năm,
tổ chức công đoàn, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
tích cực tham gia công tác tuyên truyền các chế độ chính sách, pháp luật
của Nhà nước đối với công nhân lao động, nhất là chế độ tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe và môi
trường lao động cho công nhân, các quy định về ký kết hợp đồng lao động
và thỏa ước lao động tập thể.
Thứ sáu,
chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương lượng
giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường công tác
kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh
nghiệp.
Thứ bảy,
tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp theo
hướng gắn với phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng
nhà ở và các công trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe,
nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho công nhân và nhân dân. Trong từng doanh
nghiệp phải có quy hoạch bố trí quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn
hóa cho công nhân.
Thứ tám, đẩy
mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm
vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Thực tế
cho thấy công tác xây dựng Đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên
chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt, do áp
lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng,
công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu
cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến
lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có những văn
bản pháp luật, thể chế đưa chỉ thị, nghị quyết thành những quy định cụ
thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công
đoàn, đoàn thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất
kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức
trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi
khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và
chấp hành nghiêm túc(9).
Thứ chín,
tăng cường hơn nữa vai trò và vị trí lãnh đạo của Đảng đối với việc xây
dựng giai cấp công nhân trong điều kiện cách mạng mới hiện nay. Giai
cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt
khách quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt chủ
quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình.
Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho
trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai cấp cách
mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Đội tiên phong
của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất
của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất
của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở
của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang
chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh,
chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân
tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản
hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại./.
----------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X (Lưu hành nội bộ). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, tr.43.
(2)
Căn cứ vào những sử liệu như của Hồng Ðức Thiện Chính, Giáo sư Phan Huy
Lê cho rằng ngay từ thời phong kiến ở Việt Nam đã tồn tại các “cố công
nhân”, họ là những người làm công phục vụ trong các gia đình. Những
người làm thuê này còn có loại gọi là “dung nhẫm”, “đinh phu” mà Quốc
Triều Hình Luật ghi là “đinh phu thợ thuyền” cùng với “dung phu” là
những lao động trong hầm mỏ. Thời Lê Mạt năm 1831, mỏ vàng Chiên Ðàn
(Quảng Nam) đã được khai thác với khoảng gần 1000 lao động. Năm 1833, mỏ
vàng Tiên Kiều (Tuyên Quang) tập trung tới 3122 công nhân. Tính đến đầu
đời Tự Ðức, từ Quảng Nam trở ra đã có 124 mỏ được khai thác trong đó có
3 mỏ vàng, 29 mỏ sắt, 14 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 7 mỏ kẽm, 4 mỏ chì, 1 mỏ
thiếc... Lao động công nghiệp và thủ công nghiệp từ Lý - Trần trở đi
ngày càng tinh xảo. Từ khi Lý Thái Tổ đời đô ra Thăng Long, kinh tế -
văn hóa phát triển mạnh mẽ. Nhiều lao động công nghiệp, thủ công nghiệp
đã được huy động vào các công việc xây dựng chùa quán, tô tượng, đúc
chuông, làm cầu, đóng thuyền... Công nghệ đóng thuyền tàu đi sông đi
biển bấy giờ từng đã được các thương nhân Hà Lan, Bồ Ðào Nha... đánh giá
cao. Năm 1820, Ðại tá hải quân Hoa Kỳ J. White sang Việt Nam đã nhận
xét “Người Việt Nam quả là những nhà đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành
những công trình của họ rất mực chính xác”.
(3) Đặng Ngọc Tùng: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh (http://laodong.com.vn, ngày 15.1.2011).
(4) Theo số liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương
(2008): Năm 2003, số người được kết nạp Đảng là công nhân trực tiếp sản
xuất chiếm 7,69% tổng số được kết nạp Đảng (10.723/143.550); năm 2004,
tỷ lệ này là 8,19% (12.899/157.510); năm 2005 là 6,87% (11.646/169.461).
(5) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Trung ương 6, khoá X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.25.
(6) Báo Lao Động số 117 Ngày 26-05-2008.
(7) Theo VTV1, ngày 15-9-2008.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, Tr.13.
(9) Xem thêm Trương Giang Long: Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và suy ngẫm, Tạp chí Cộng sản số 23 (143) năm 2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét