Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014
Xay dung lien minh cong-nong-tri thuc
Đảng vạch ra cương lĩnh đúng đắn là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng
đầu đối với thắng lợi của cách mạng. Song muốn đưa cách mạng đến thắng
lợi hoàn toàn, Đảng còn phải xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, mà
trong đó quan trọng hơn cả là xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức cách mạng. Dựa vào khối liên minh này, Đảng
mới đoàn kết được các lực lượng tiến bộ, làm cho cuộc cách mạng mang
tính chất nhân dân.
Mác và Ǎngghen phát hiện vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, đồng thời
hết sức quan tâm nghiên cứu các lực lượng đồng minh để giai cấp vô sản
có điều kiện hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau khi giai cấp vô sản Nga đã giành được chính quyền, nước Nga bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin đã vận dụng sáng tạo tư
tưởng nói trên của Mác và Ǎngghen vào điều kiện nước Nga. Lênin nói:
"Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp
giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông
đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ,
nông dân, trí thức, v.v.) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh
nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu
diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi
phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã
hội".
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 60 nǎm qua chứng minh rằng - vấn đề nông
dân và trí thức chẳng những là nội dung cơ bản của cách mạng dân tộc dân
chủ, mà còn là lực lượng có ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập vai
trò lãnh đạo của Đảng ta và phương pháp cách mạng trong việc giành và
giữ chính quyền.
Liên minh công, nông và trí thức là một nguyên tắc chiến lược của chủ
nghĩa Mác - Lênin, một tất yếu phổ biến đối với các cuộc cách mạng do
Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Liên minh đặc biệt này có tầm quan
trọng đối với cách mạng nước ta, nhất là ở chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
I- ĐẢNG TA THỰC HIỆN LIÊN MINH CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ THỨC TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
Trước Cách mạng Tháng Tám (1945), Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa
phong kiến. Giai cấp công nhân còn ít, tầng lớp trí thức mới ra đời,
nông dân chiếm hơn 95% dân số. Song nhờ có ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
nhiều đồng chí tiền bối đã nhận thức đúng vai trò lịch sử của giai cấp
công nhân, lực lượng cách mạng to lớn của giai cấp nông dân và vai trò
"ngòi pháo" cách mạng của tầng lớp trí thức.
Tại Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất ở Mátxcơva (tháng 10-1923),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "... chỉ trở thành quốc tế thật sự khi mà
không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân phương Đông, nhất là
nông dân ở các nước thuộc địa...) đều tham gia Quốc tế...". Nǎm 1927,
Người lại nói thêm "công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ ... là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi".
Hơn 45 nǎm tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta đã dày
công xây dựng khối liên minh công, nông và trí thức cách mạng. Đảng chú ý
giáo dục tinh thần yêu nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
cho công nhân, nông dân và trí thức để đoàn kết, tập hợp họ chiến đấu
dưới ngọn cờ của Đảng, chống đế quốc và tay sai.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng những thành quả cách mạng đã giành
được, nhất là thành công của Cách mạng tháng Tám, có ý nghĩa chính trị,
kinh tế và xã hội to lớn. Đó là nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vô
tận đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954) và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ - cứu nước trong
những nǎm 1955-1975.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta xây dựng
khối liên minh công, nông và trí thức cách mạng trên cơ sở nhận thức và
giải quyết sớm những vấn đề dưới đây:
1. Sớm nhận thức vị trí các giai cấp trong liên minh
Thấm nhuần học thuyết Mác - Lênin, những người cộng sản Việt Nam sớm
khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt
Nam.
Vào cuối những nǎm 20 của thế kỷ này, số lượng công nhân Việt Nam chỉ
chiếm 1,2% dân số. Tuy còn trẻ và ít, song giai cấp công nhân Việt Nam
có đủ bản chất chung của giai cấp công nhân quốc tế; đồng thời còn có
những đặc điểm riêng, rất thuận lợi trong việc giành và giữ quyền lãnh
đạo cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành trước
giai cấp tư sản Việt Nam và bước lên vũ đài chính trị sau khi Cách mạng
Tháng Mười Nga đã giành được thắng lợi và giai cấp tư sản ở nhiều nước
đã vứt bỏ ngọn cờ dân tộc. Chính bối cảnh chính trị thế giới ấy đã làm
cho giai cấp công nhân Việt Nam có thêm uy tín chính trị để giương cao
ngọn cờ lãnh đạo dân tộc làm cách mạng giải phóng, giành độc lập, dân
chủ theo con đường mới.
Nhưng điều quan trọng hơn là giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, có lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng tiền phong lãnh
đạo. Đảng lại có đường lối cách mạng đúng, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của
dân tộc và giai cấp. Sau khi ra đời, Đảng đã lập ra tổ chức công hội để
giáo dục và vận động công nhân; lập ra nông hội, hội vǎn hoá cứu quốc và
các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, v.v., để giáo dục và tổ chức nông dân,
trí thức và các tầng lớp lao động khác.
Vì vậy, giai cấp công nhân không những đã đoàn kết được giai cấp mình mà
còn đoàn kết được giai cấp nông dân và tranh thủ phần lớn những người
yêu nước trong tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước
ngày càng tham gia đông đảo vào phong trào giải phóng dân tộc theo
đường lối của Đảng.
Đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói,
chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân
ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của
nhân dân Việt Nam.
Chiếm hơn 95% số dân, nông dân nước ta là một lực lượng cách mạng to
lớn, sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Nông dân Việt Nam chưa từng đi
theo giai cấp tư sản không phải vì giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau
giai cấp công nhân, mà vì giai cấp tư sản Việt Nam yếu về kinh tế, bạc
nhược về chính trị, không thể đáp ứng được yêu cầu của nông dân và của
dân tộc.
Nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng, nhưng họ không thể là lực
lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ vì họ không gắn liền với một
phương thức sản xuất mới và không có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng không
có khả nǎng xây dựng một chế độ xã hội mới.
Dưới thời đế quốc Pháp thống trị, các nhà yêu nước như Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v., đã kêu gọi nhân
dân, trong đó có nông dân, đấu tranh chống đế quốc Pháp để giữ nước
nhưng chưa có ai đề ra đường lối cách mạng dân chủ triệt để, khả dĩ tập
hợp nông dân chống địa chủ phong kiến, giành lại ruộng đất, để cứu nước
và cứu lấy mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người Cộng sản Việt Nam thấu hiểu điều
mong muốn thiết tha nhất của nông dân. Từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chủ trương "lãnh đạo dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến".
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm cho phong trào nông dân từng bước xích lại gần với phong
trào công nhân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng còn chỉ rõ mục tiêu, nội dung
và đối tượng của liên minh trong từng thời kỳ nhằm từng bước thực hiện
mục tiêu chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc. Nhờ kết hợp thực hiện
đúng đắn hai khẩu hiệu chiến lược "độc lập dân tộc" và "người cày có
ruộng" với việc giải quyết yêu cầu cụ thể của từng cuộc đấu tranh trong
từng thời kỳ cách mạng, Đảng đã lãnh đạo nông dân đi theo giai cấp công
nhân đấu tranh, từng bước giành lại những quyền lợi thiết thân cho dân
tộc và giai cấp; đồng thời Đảng giáo dục để loại bỏ dần những hành động
tiêu cực trong phong trào nông dân như cục bộ, địa phương, hẹp hòi, mê
tín dị đoan, v.v..
Đảng coi trọng khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức.
Đế quốc Pháp thống trị nước ta vừa làm phân hoá, mai một tầng lớp trí
thức phong kiến, đồng thời tạo ra tầng lớp trí thức mới - trí thức tư
sản. Nhưng một mặt do chế độ chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh
tế, nên tầng lớp này không có cơ sở kinh tế - chính trị để phát triển.
Mặt khác, do truyền thống yêu nước của dân tộc và sự thu hút của phong
trào công nông nên phần lớn trí thức Việt Nam đã tích cực tham gia phong
trào giải phóng dân tộc, chống đế quốc và tay sai.
Từ khi phong trào yêu nước lâm vào khủng hoảng về đường lối, nhiều trí
thức đã đứng ra tổ chức phong trào chống đế quốc Pháp, lập ra một số tổ
chức và đảng cách mạng như: Tâm Tâm Xã (1923), Phục Việt, Tân Việt cách
mạng Đảng (1926-1930), Hội kín của Nguyễn An Ninh (1927-1929), Đảng
thanh niên của Trần Huy Liệu (1928), Việt Nam quốc dân Đảng của Nguyễn
Thái Học (1927-1930), v.v..
Tuy có tinh thần phản đế, nhưng lúc đầu họ chịu ảnh hưởng của hệ tư
tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ nên không thể tự tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn, không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Sự thất bại của
cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) do Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức với
khẩu hiệu "không thành công cũng thành nhân" đã thể hiện quan điểm bấp
bênh tiểu tư sản và sự bất lực của đảng này.
Từ khi đồng chí Nguyễn ái Quốc lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội, tổ chức tiền thân của Đảng, thì những trí thức yêu nước đã
từng bước chịu ảnh hưởng tư tưởng cứu nước của Người và chuyển dần từ
lập trường cách mạng dân tộc dân chủ kiểu cũ sang lập trường cách mạng
dân tộc dân chủ kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng luôn luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức cách mạng
vào hàng ngũ của mình và các đoàn thể cách mạng khác, làm cho họ trở
thành một "động lực" cách mạng quan trọng.
Đảng luôn luôn uốn nắn những quan điểm tư tưởng lệch lạc mang tính chất
tiểu tư sản, biểu hiện ở một số chủ trương như: thanh đảng, thanh hội
của xứ uỷ Trung Kỳ (20-5-1931) hay "trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc
tận rễ", vận dụng rập khuôn kinh nghiệm cách mạng ruộng đất của Trung
Quốc vào điều kiện nước ta..., đồng thời Đảng đấu tranh chống những xu
hướng đánh giá thấp lực lượng nông dân (bạn đồng minh chủ yếu và đáng
tin cậy nhất của giai cấp công nhân). Đảng còn phê phán quan điểm của
một số trí thức trong Đảng dân chủ đòi chia quyền lãnh đạo cách mạng và
quan điểm tư tưởng sai trái của nhóm "Nhân vǎn giai phẩm" trong những
nǎm 1957-1959, v.v.. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tầng lớp trí thức đã cùng với giai cấp công nhân,
nông dân và cả dân tộc lập nhiều chiến công trong sự nghiệp giành và giữ
chính quyền cũng như trong kháng chiến và kiến quốc.
Trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm đánh giá và phát
huy đúng mức khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức; đặt vị trí quan
trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng. Nhưng về mặt lý luận, Đảng
ta chưa vượt khỏi khuôn khổ các vǎn kiện của Quốc tế cộng sản, nhất là
Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế cộng sản (9-1928). Đại hội Đảng lần thứ II
(2-1951) đã khẳng định trí thức "là một trong những động lực đáng kể
của cách mạng. Họ là bạn đồng minh tin cậy được của giai cấp công nhân".
2. Giải quyết kịp thời quyền lợi thiết thân của công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Đó
là nhà nước của nhân dân lao động đầu tiên ở Đông Nam châu á. Các giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức cách mạng trở thành người làm chủ
đất nước và tham gia xây dựng chính quyền.
Đảng hết sức quan tâm giải quyết quyền lợi của nông dân và nhân dân lao
động khi có điều kiện.
Sau Cách mạng Tháng Tám, cǎn cứ vào chủ trương của Chính phủ lâm thời,
ngày 20-11-1945, ủy ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thông tư giảm tô 25%. Ngày
14-7-1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô và từng bước thực hiện cải
cách ruộng đất, Đảng đã chia cho nông dân 177.000 ha ruộng đất, trong đó
có 18.400 ha ruộng đất tịch thu của thực dân Pháp, 39.600 ha ruộng đất
của đại địa chủ và 119.000 ha ruộng đất công.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt,
tháng 10-1953, Đảng phát động phong trào quần chúng đòi triệt để giảm tô
và thực hiện cải cách ruộng đất. Tuy có phạm một số sai lầm, nhưng Đảng
đã lãnh đạo nông dân các tỉnh miền Bắc giành thêm 456.000 ha ruộng đất
từ tay địa chủ. Chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, phong kiến ở các
tỉnh miền Bắc bị xoá bỏ. Quyền sở hữu ruộng đất của nông dân lao động
được Nhà nước thừa nhận.
Cũng trong thời gian này, từ tỉnh Quảng Trị đến các tỉnh ở Nam Bộ, dưới
sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, nông dân đã được chia cấp hơn
750.000 ha ruộng đất. ở nhiều nơi địa tô phong kiến đã giảm, có nơi chỉ
còn 15%.
Thành quả về cách mạng ruộng đất có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó làm tǎng
thêm nguồn sức mạnh của nhân dân trong quá trình cách mạng. Thành quả ấy
chẳng những động viên cổ vũ giai cấp nông dân mà cả giai cấp công nhân
và tầng lớp trí thức, bởi lẽ giai cấp công nhân và phần lớn trí thức đều
xuất thân từ giai cấp nông dân và nhân dân lao động, chẳng những họ có
kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến đại địa chủ, đại tư sản làm tay
sai, mà còn có quan hệ gia đình, xã hội hết sức gần gũi với nông dân.
Phần đất người nông dân được chia không chỉ là lợi ích riêng của họ mà
người công nhân, người trí thức ít nhiều đều có lợi ích chung.
Vì vậy, vấn đề ruộng đất của nông dân là một nội dung cơ bản của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.
Ngoài quyền lợi ruộng đất, nhân dân ta nói chung, công - nông và tầng
lớp trí thức nói riêng còn được hưởng những quyền lợi khác không kém
phần quan trọng. Đó là quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do tổ
chức, tự do hội họp, tự do đi lại trong nước và tự do xuất dương, v.v.,
đã được Đảng ta công bố trong Chương trình của Việt Minh (25-11-1941) và
ngày càng tạo điều kiện để thực hiện những quyền lợi đó.
Đảng chủ trương khuyến khích và giúp đỡ, tạo điều kiện cho trí thức, vǎn
nghệ sĩ phát triển tài nǎng bằng việc lập các trường chuyên môn huấn
luyện, đào tạo nhân tài của đất nước ngày càng đông đảo.
Những kết quả về cách mạng ruộng đất và việc thực hiện quyền tự do, dân
chủ cũng như về cách mạng vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật trong mấy chục nǎm
qua đã làm tǎng sự gắn bó giữa công nhân, nông dân và trí thức đối với
Đảng, với chế độ mới mà nhân dân ta đang xây dựng.
3. Xác định đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng
Đảng ta chẳng những vạch ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn,
mà còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để liên kết các lực lượng cách
mạng, bảo đảm cho giai cấp công nhân giữ vững quyền lãnh đạo và vai trò
nòng cốt trong các cuộc đấu tranh.
Với lý luận Mác - Lênin soi đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
sớm giải quyết đúng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vạch ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Trên quan điểm giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, Đảng
ta giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm
vụ chống phong kiến. Giải quyết đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược ở giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, bảo đảm cho Đảng ta vừa củng cố được
liên minh công nhân, nông dân và trí thức, vừa lôi kéo được những người
thuộc tầng lớp trên (tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ) có tinh thần
chống đế quốc vào mặt trận dân tộc thống nhất; vừa ngǎn ngừa, sửa chữa
kịp thời những sai lầm tả, hữu khuynh trong việc thực hiện đường lối
cách mạng.
Liên minh công nhân, nông dân và trí thức được củng cố, phong trào cách
mạng ở hai địa bàn chiến lược thành phố và nông thôn, gắn bó chặt chẽ
với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của
cách mạng. Trong mối quan hệ giữa hai địa bàn chiến lược này, Đảng coi
trọng cả hai địa bàn, nhưng đánh giá thành phố là địa bàn xung yếu, vì
nếu phong trào công nhân và nhân dân lao động (lao động chân tay và trí
óc) ở thành phố yếu thì khởi nghĩa quần chúng không thể trở thành tổng
khởi nghĩa để giành thắng lợi.
Trong khi khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân, động lực
cách mạng là các giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, Đảng
ta hết sức quan tâm xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, coi đó là một
trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. Đảng ta xác định liên
minh công, nông và trí thức là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tổng kết công tác mặt trận, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II,
Đảng ta chỉ rõ: "Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và
lao động trí thức làm nòng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo". Khối
liên minh này được củng cố vững chắc bao nhiêu thì Mặt trận dân tộc
thống nhất càng có điều kiện mở rộng bấy nhiêu. Có thể nói, không củng
cố được liên minh công, nông và trí thức thì cũng không thể có Mặt trận
dân tộc thống nhất.
II- CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG LIÊN MINH CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ THỨC TRONG CHẶNG ĐƯỜNG ĐẦU THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Những bước phát triển mới của liên minh công, nông và trí thức từ khi cả nước bước vào chặng đường đầu thời kỳ quá độ
Từ cuối nǎm 1954, miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Hơn 15 nǎm kể từ ngày hoà bình, thống nhất Tổ quốc, là một thời kỳ sôi
động, phức tạp và đầy khó khǎn, thử thách của quá trình phát triển đi
lên của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, tuy có nhiều sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức
cũng như hành động, song xét về cơ bản, Đảng ta đã sửa chữa có kết quả
và từng bước giải quyết đúng vấn đề nông dân, thực sự góp phần củng cố
khối liên minh công - nông và trí thức.
Nǎm 1930, giai cấp công nhân mới có 22 vạn người, chiếm tỷ lệ 1,2% dân
số. Là lực lượng sản xuất chủ yếu trong kinh tế của thực dân Pháp, nhưng
thân phận của giai cấp công nhân cũng như nhân dân ta nói chung đều là
người nô lệ.
Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, giai cấp công nhân làm chủ
các cơ sở sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng ... do
giành lại được từ tay thực dân Pháp và tư sản mại bản mà nhân dân ta xây
dựng nên. ở miền Nam, sau khi hoàn thành cải tạo công thương nghiệp tư
bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân làm chủ phần tư liệu sản xuất chủ yếu
lấy lại từ tay đế quốc, thực dân và tầng lớp tư sản mại bản bao gồm
12.680 xí nghiệp lớn, nhỏ.
Thông qua từng bước tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và sự
liên doanh, liên kết với các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
đã tǎng lên cả về số lượng và chất lượng. Đến nay cả nước có hơn 2 triệu
công nhân kỹ thuật, trong đó có 3.150 công nhân bậc cao.
Giai cấp công nhân cả nước có tổ chức thống nhất là Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam với hơn 4 triệu đoàn viên. Lực lượng giai cấp công nhân,
chủ thể của liên minh, được tǎng cường và củng cố thêm một bước.
Tuy vậy, so với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, giai cấp công
nhân chưa đáp ứng đầy đủ. Giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn ít về số
lượng và yếu về tay nghề, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa còn bị hạn
chế.
Tầng lớp trí thức Việt Nam phát triển và trưởng thành cùng với sự phát
triển và thắng lợi của cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất (1976),
lực lượng trí thức thêm đông đảo và trình độ khoa học ngày càng được
tǎng lên.
Thực hiện chính sách vǎn hoá, giáo dục, đào tạo của Nhà nước ta, hàng
nǎm ở Việt Nam trung bình có khoảng 11 triệu học sinh đến trường. Ngoài
12.012 trường phổ thông cơ sở còn có 832 trường phổ thông trung học và
298 trường dạy nghề với 12 vạn chỗ ngồi. Hàng nǎm có hàng vạn học sinh
đại học và trung học chuyên nghiệp tốt nghiệp toả đi phục vụ khắp mọi
miền đất nước. Nǎm 1976 là 18,8 vạn người thì nǎm 1980 lên 29,7 vạn
người. Đến ngày 1-4-1980 số người tốt nghiệp phổ thông trung học là 3,1
triệu; cao đẳng, đại học và trên đại học là 74 vạn; trung học chuyên
nghiệp gần 12,7 vạn. Nǎm 1989, số học sinh phổ thông là 12,2 triệu,
trung học chuyên nghiệp là 13,8 vạn; cao đẳng và đại học là 12,8 vạn.
Chỉ riêng trong khu vực nông nghiệp, số cán bộ được đào tạo đến nǎm 1975
nhiều gấp 93,2 lần nǎm 1955. Nǎm 1955 cứ 1.000 công nhân chỉ có 5 người
có trình độ đại học trở lên, đến nǎm 1975 đã có 64 người . Số người này
đã và sẽ gia nhập vào hàng ngũ công nhân, viên chức nhà nước và sẽ ngày
càng được trí thức hoá.
Đội ngũ trí thức Việt Nam ngày một tǎng cả về số và chất lượng. Cùng với
hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật, chúng ta có một đội ngũ cán bộ khoa
học, kỹ thuật trên 697.430 người; trong đó có 443.273 người có trình độ
trung học chuyên nghiệp, 66,986 người có trình độ cao đẳng, 70.000 người
có trình độ đại học và hơn 6.000 người có trình độ phó tiến sĩ và tiến
sĩ khoa học.
Tầng lớp trí thức đã trở thành một lực lượng quan trọng trong dân cư
nước ta, chiếm một tỷ lệ khá lớn trong số 4 triệu cán bộ, công nhân,
viên chức, làm việc khắp mọi lĩnh vực thuộc bộ máy lãnh đạo và quản lý
của Đảng, Nhà nước các cấp, trong các cơ sở kinh tế tập thể và ngoài
quốc doanh. Bên cạnh những nhà khoa học quản lý và khoa học xã hội, số
đông những nhà trí thức khoa học công nghệ đã có nhiều sáng chế, phát
minh được áp dụng vào sản xuất và đời sống. Việc lai tạo nhiều giống lúa
cho nǎng suất cao, lai tạo đàn gia súc và gia cầm có kết quả, đã làm
cho nền nông nghiệp nước ta có những đóng góp quan trọng vào chương
trình lương thực, thực phẩm thế giới. Trong thực tế, tầng lớp trí thức
đã là lực lượng xung kích, nòng cốt của 40 triệu lao động nước ta, đang
khắc phục khó khǎn để kiến thiết đất nước.
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã "coi khoa học và công nghệ là một
động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới..., coi người làm công tác khoa
học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy quý báu của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta".
Tuy vậy, sự đóng góp của trí thức chưa làm chuyển biến mạnh mẽ nền kinh
tế cũng như các mặt khác của đời sống xã hội. Sự hạn chế đó của tầng lớp
trí thức do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nhưng trước hết
là nhiều cấp uỷ Đảng và chính quyền, trong nhận thức chưa nhất trí về
vai trò của lực lượng quan trọng này, nên chưa quan tâm đúng mức đến
tầng lớp trí thức trong công cuộc đổi mới; chính sách, chế độ đãi ngộ
trong khoa học còn nhiều điều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính bình
quân. Lao động chất xám nói chung rẻ hơn lao động giản đơn. Điều kiện
tối thiểu để làm việc và sinh hoạt của cán bộ khoa học chưa được bảo
đảm.
Những điều bất hợp lý đó là lực cản, hạn chế trí thức đem tài nǎng và
trí tuệ đóng góp vào sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh".
Đối với giai cấp nông dân, sau khi miền Nam được giải phóng, Đảng tiếp
tục lãnh đạo nông dân đấu tranh xoá bỏ tàn dư của chế độ thực dân, phong
kiến về ruộng đất. Hoàn thành nhiệm vụ này, Đảng đã trao lại cho nông
dân các tỉnh phía Nam 470.517 ha ruộng đất.
Trải qua 40 nǎm đấu tranh liên tục, từ Cách mạng Tháng Tám (1945) đến
hết nǎm 1985, ngoài ruộng đất công, nông dân cả nước đã giành lại
2.027.517 ha ruộng đất từ tay đế quốc, phong kiến, địa chủ và bọn phản
cách mạng.
Quan hệ sản xuất thuộc địa, nửa phong kiến ở nông thôn hoàn toàn bị xoá
bỏ. Người nông dân đã làm chủ gia đình, thôn xóm và ruộng đồng.
Trên cơ sở phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, Quốc hội khoá VII
(12-1987) đã thông qua Luật đất đai. Theo luật toàn bộ đất đai, rừng,
biển Việt Nam đều là tài sản chung của toàn dân. Mọi người dân đều có
quyền được phân phối sử dụng theo khả nǎng để phát triển sản xuất, đáp
ứng yêu cầu của gia đình và xã hội.
Hội nông dân ra đời từ tháng 10 nǎm 1930 và tháng 3 nǎm 1988 đã tiến
hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất. Sự kiện quan trọng này nói
lên sự phát triển nhận thức, lý luận và thực tiễn của Đảng ta về giai
cấp nông dân Việt Nam, đồng thời thể hiện một bước củng cố liên minh về
mặt chính trị.
Tuy vậy, kết quả của phong trào hợp tác hoá cũng như Đại hội Hội nông
dân chưa thực sự củng cố liên minh. Sai lầm trong vấn đề này là đã đồng
nhất cải tạo nông nghiệp với hợp tác hoá. Do đó, "về nội dung cải tạo,
thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân
phối".
Đời sống nông dân chậm được cải thiện. Đại bộ phận dân cư nông nghiệp
chưa thật sự thoát khỏi nghèo nàn, đời sống vật chất, tinh thần còn
nhiều khó khǎn.
Đảng ta biết coi trọng kinh tế nông nghiệp, nhưng chưa thật có chính
sách khuyến nông đầy đủ. Điều đó đã làm cho người sản xuất nông nghiệp
luôn bị thua lỗ, làm nhiều nhưng hưởng ít. Theo báo cáo của Bộ Nông
nghiệp, tỷ lệ lương thực Nhà nước huy động ở nhiều hợp tác xã đồng bằng
và trung du Bắc Bộ trước nǎm 1980 là 20 đến 23% sản lượng. Những nǎm
1981-1985 tǎng lên 30 đến 40% sản lượng. Nếu tính cả phần lương thực
dành cho chǎn nuôi để làm nghĩa vụ bán thịt cho Nhà nước thì mức huy
động đã lên tới 45 đến 50% sản lượng.
Những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp đã làm
mất đi động lực phát triển sản xuất, ngǎn cách người nông dân với đồng
ruộng. Điều đó làm suy giảm sự bền chặt vốn có của liên minh công, nông
và trí thức trong những nǎm vừa qua.
2. Công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa củng cố liên minh công, nông và trí thức.
- Từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Thực trạng kinh tế - xã hội nước ta trong những nǎm 1978-1980 là thời kỳ
sa sút, khó khǎn chồng chất. Nông nghiệp, một nền kinh tế chủ yếu ở
nước ta, đã lâm vào tình trạng trì trệ; hiệu quả đầu tư thấp, không
tương xứng với công của bỏ ra. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bị suy
yếu. Khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức bị rạn nứt. Trước
tình hình ấy, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng (khoá IV - tháng 9
nǎm 1979) đề ra nhiều chủ trương nhằm khắc phục tình hình trên. Trung
ương đã nhấn mạnh nhân tố lợi ích kinh tế trong hoạt động sản xuất -
kinh doanh, đưa ra các hình thức tổ chức và quản lý thích hợp với chặng
đường đầu thời kỳ quá độ ở nước ta. Trên cơ sở Nghị quyết 6, Ban Bí thư
ra Chỉ thị 100 CT/TW về "khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
các hợp tác xã nông nghiệp", Hội đồng Chính phủ có Chỉ thị 26/CP về mở
rộng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất - kinh doanh của
Nhà nước.
Tuy nhiên, khoán mới cũng chỉ có tác dụng nhất định. Từ cuối nǎm 1985
đến nǎm 1986, nông nghiệp lại có chiều hướng giảm sút.
Để khắc phục tình trạng này, Đại hội Đảng lần thứ VI và sau đó Hội nghị
Trung ương lần thứ hai đã quyết định đổi mới toàn diện và đồng bộ chính
sách đối với nông nghiệp và nông dân nhằm giải phóng sức sản xuất ở nông
thôn.
Đối với nông dân, Đảng chủ trương "phải giải quyết tốt quan hệ giữa
nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền lợi của nông dân. Nhà nước phải
soát lại các chính sách quan hệ đến nông dân, bãi bỏ những chính sách
không đúng".
Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa Nhà nước với nông dân, ngoài thuế
là nghĩa vụ bắt buộc duy nhất, mọi quan hệ trao đổi đều là quan hệ mua
bán hàng hoá, dựa trên cơ sở vận dụng đúng quy luật giá trị. Đó là quan
hệ thuận mua, vừa bán, thật sự bình đẳng. Xoá bỏ các khoản "phụ thu lạm
bổ" của bất cứ ngành nào, cấp nào đối với nông dân. Tiếp theo, Bộ Chính
trị có Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý nông nghiệp, nhằm hướng dẫn giải
quyết tốt mối quan hệ trong nội bộ hợp tác xã theo hướng hoàn thiện cơ
chế khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động, cải tiến công tác hạch
toán và phân phối thu nhập để động viên nhiệt tình lao động của nông
dân. "Khoán 10" đã động viên cổ vũ nông dân bỏ công, bỏ vốn vào kinh
doanh, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Khoán 10 đã đi vào nông thôn,
làm cho bộ mặt nông thôn, nông nghiệp và nông dân có nhiều biến đổi.
"Khoán 10" làm xuất hiện động lực mới trong sản xuất, tạo ra sự gắn bó
trực tiếp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, giữa lao động và thu
nhập, đưa lại hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Chưa đầy 3 nǎm thực hiện
cơ chế khoán mới, nông sản hàng hoá trên thị trường dồi dào hơn. Đặc
biệt là lương thực. Lần đầu tiên trong nhiều nǎm, nước ta có dự trữ
lương thực tương đối khá và còn có để xuất khẩu. Nǎm 1988 nước ta sản
xuất được 19 triệu tấn lương thực, nǎm 1989 đạt 20 triệu tấn và nǎm 1990
đạt 21 triệu tấn, đưa mức bình quân lương thực đầu người từ 206,5 kg
nǎm 1977 lên 335 kg nǎm 1990. Nǎm 1989, lượng gạo xuất khẩu của nước ta
đạt 1,5 triệu tấn, đứng hàng thứ 3 trên thế giới, sau Thái Lan và Mỹ.
Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, các tầng lớp nhân dân đã đầu tư
vốn, vật tư, kỹ thuật để phát triển sản xuất.
Qua "khoán hộ" và liên minh kinh tế, người nông dân thực sự làm chủ mảnh
đất mà Đảng và Nhà nước trao quyền sử dụng cho họ. Dân chủ về mặt kinh
tế bước đầu được bảo đảm. Lòng tin của nông dân đối với Đảng và Nhà nước
được củng cố thêm một bước.
- Điều chỉnh phương hướng và bước đi của công nghiệp hoá, tập trung sức
phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình nước ta ngay từ những nǎm đầu miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "Nước ta là một nước nông nghiệp... Muốn phát triển công nghiệp,
phát triển kinh tế nói chung, phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc,
làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát
triển công nghiệp". Tư tưởng nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở
cho sự hình thành đường lối công nghiệp hoá đất nước của Đảng.
Song do toàn Đảng chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ, chưa xác định
được những mục tiêu của chặng đường đầu, nên đã đẩy mạnh công nghiệp
hoá trong khi chưa có đủ những điều kiện, tiền đề cần thiết, dẫn đến kết
quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả kinh tế thấp.
Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định muốn đưa nền kinh tế sớm thoát
khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối "phải dứt khoát sắp xếp lại nền
kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lý". Đại hội đã xác định nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những nǎm còn lại trong chặng đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt kinh tế - xã hội..., xác định 5 mục tiêu cụ thể
về kinh tế - xã hội, coi ba chương trình kinh tế là cốt lõi của kế
hoạch kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết bằng được nhu cầu cơ bản về
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và các nhu cầu khác về
đời sống nhân dân và phục vụ cho dân giàu, nước mạnh. Đại hội lần thứ
VII của Đảng đã nêu mục tiêu tổng quát 5 nǎm (1991 - 1995) là "vượt qua
khó khǎn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tǎng cường
ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ
bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay".
Trong khi thực hiện mục tiêu cách mạng do Đại hội đề ra, không thể tách
rời việc xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng
hoá, không thể tách rời các mục tiêu phát triển kinh tế tương ứng khác
và hỗ trợ cho nông nghiệp như công nghiệp nặng, kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông vận tải và các ngành vǎn hoá, xã hội.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội.
Đại hội lần thứ VI của Đảng vạch rõ, trước mắt tập trung sức giải quyết
những vấn đề có thể giải quyết được phù hợp với từng đối tượng.
Đối với giai cấp công nhân, Đảng đề ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng
cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng
đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng; đồng thời chǎm lo đời
sống vật chất và vǎn hoá, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng quyết định cần "có
chế độ tiền lương và phúc lợi xã hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật chất
và vǎn hoá của công nhân, viên chức và gia đình".
Đối với trí thức, Đại hội lần thứ VI của Đảng chủ trương: "điều quan
trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng nǎng lực và
tạo điều kiện cho nǎng lực được sử dụng đúng và phát triển". Cùng với
chủ trương đúng đắn nói trên, Đại hội còn phê phán những quan điểm hẹp
hòi, không thấy hết vị trí của trí thức đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Sau Đại hội lần thứ VI, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm bảo đảm ổn định đời sống của công nhân, viên
chức và trí thức. Hiệu quả của chủ trương nói trên được biểu hiện ở
những tiếng nói chân thành, xây dựng trong những dịp Đảng trưng cầu ý
kiến.
Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: "Thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây
vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới".
Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, tǎng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ
dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật, sao cho giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa có điều kiện phát
huy hết khả nǎng, sức mạnh của mình, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp
của cách mạng, của dân tộc để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó
khǎn trước mắt.
Việc củng cố liên minh công, nông và trí thức trong những nǎm tới là một
trong những nhiệm vụ chính trị trọng yếu của Trung ương Đảng và Chính
phủ cũng như toàn Đảng, toàn dân ta.
III- NHỮNG KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ LIÊN MINH CÔNG, NÔNG VÀ TRÍ THỨC
Công nhân, nông dân, trí thức là những động lực của cách mạng Việt Nam.
Không củng cố liên minh này, Đảng ta không thể đưa đất nước thoát khỏi
khó khǎn để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học xây dựng và củng cố liên minh công, nông và trí thức trong 60
nǎm qua, có thể tập trung ở những vấn đề cơ bản sau:
1. ở mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng lãnh đạo phải sớm xác định mục
tiêu, nội dung và đối tượng liên minh của giai cấp công nhân để tǎng
cường củng cố liên minh, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng giữ được
tính liên tục và thế chủ động trong quá trình phát triển và thắng lợi.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
với chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chỉ rõ: động lực cách mạng là giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Lực lượng cách mạng
gồm các giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và
tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ. Giai cấp công nhân, mà đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công, nông và
trí thức cách mạng.
Xây dựng lực lượng cách mạng gồm các giai cấp và tầng lớp nói trên nhằm
đoàn kết dân tộc để chống lại kẻ thù là đế quốc xâm lược (Pháp 1885-1945
và 1946-1954; Nhật 1940-1945 Mỹ; 1955-1975) và bè lũ tay sai của chúng,
thực hiện "độc lập dân tộc" và "người cày có ruộng" để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Đường lối sáng tạo và sự chỉ đạo đúng đắn được thể hiện trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt cùng các nghị quyết, chủ trương của
Đảng đã từng bước dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, ruộng đất đã về tay
nông dân, kết cấu giai cấp ở nông thôn đã thay đổi. Giai cấp địa chủ
không còn.
Những gia đình bần cố nông được cách mạng chia ruộng và trở thành tầng
lớp trung nông mới. Tầng lớp địa chủ chịu sự cải tạo của cách mạng đã
trở thành người lao động. Như vậy, xét về giai cấp nông dân sau cách
mạng ruộng đất chỉ còn hai tầng lớp trung nông và phú nông.
Theo nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp tư sản (kể
cả phú nông) là đối tượng đấu tranh của giai cấp công nhân. Nhưng ở Việt
Nam, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, giai cấp tư sản dân tộc
trong đó có phú nông đã đi theo Đảng đấu tranh giành độc lập dân tộc,
dân chủ và khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, họ tiếp thu cải tạo
nên Đảng ta vẫn coi họ là một lực lượng xây dựng đất nước theo hướng
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã
đề ra mục tiêu phấn đấu là "ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo". Mục tiêu cách mạng mà
Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra cũng là mục
tiêu phấn đấu cho liên minh công, nông và trí thức ở nước ta.
Để thực hiện mục tiêu đó, giai cấp công nhân và trí thức phải liên minh
chặt chẽ với trung nông (cả trung nông đã vào hợp tác xã và chưa vào hợp
tác xã) để đoàn kết và hướng kinh tế phú nông phát triển theo kế hoạch
của Nhà nước. Đối tượng, nội dung liên minh ở mỗi giai đoạn do nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng quy định. Khi việc giành chính quyền được đặt
ra thì nội dung liên minh quân sự, chính trị được đặt lên hàng đầu.
Trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu của cách mạng là
chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh thì liên
minh kinh tế trở thành nội dung chủ yếu.
Lênin nói: nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là sự liên minh
giữa giai cấp vô sản với trung nông và trí thức. Tư tưởng đó của Lê-nin
được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng cụ thể vào nước ta, xây dựng khối
liên minh công, nông và trí thức trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân cũng như những nǎm đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc nước ta (1958-1960). Những thành quả về kinh tế, xã hội ở miền
Bắc nước ta thời kỳ nói trên đã thể hiện sự phấn đấu của toàn dân ta.
2. Đảng cần có những chính sách đúng để khơi dậy lòng yêu nước của công nhân, nông dân và trí thức.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, nhờ sớm đánh giá và có chính
sách đúng đắn mà Đảng của giai cấp công nhân đã lôi kéo được nông dân,
trí thức và tập hợp được các giai cấp cách mạng, các lực lượng yêu nước,
đưa Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi.
Nếu trước đây những chủ trương, chính sách của Đảng là nhằm đấu tranh
giành lại độc lập cho đất nước, thay đổi địa vị xã hội của công nhân,
nông dân, trí thức và cả dân tộc, đem lại những quyền dân sinh, dân chủ
thiết thực cho quần chúng, thì trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trên
cơ sở những thắng lợi đã giành được mà quyền lợi thiết thân của công
nhân, nông dân và trí thức nâng lên một bước chẳng những về quyền lợi
chính trị mà cả quyền lợi kinh tế.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII
của Đảng đã đề ra, đối với nông dân, Đảng trao quyền sử dụng ruộng đất
lâu dài theo khả nǎng từng hộ nông dân, thiết lập quan hệ mua bán bình
đẳng giữa khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể và cá
thể, định giá hàng hoá hợp lý nhằm khuyến khích nông dân sản xuất nhiều
nông sản hàng hoá, v.v.. Thực hiện cơ chế khoán hộ, "các hộ xã viên là
những đơn vị kinh tế tự chủ", là một trong những chủ trương thích hợp
với nông dân trong thời kỳ hiện nay.
Đối với trí thức, Đảng ta đã "coi khoa học và công nghệ là một động lực
mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế -
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong thực tế, trí thức được
Đảng và nhà nước trao những nhiệm vụ quan trọng, chẳng những ở trong bộ
máy Nhà nước mà còn trao cho trọng trách trong lĩnh vực quản lý nền kinh
tế, quản lý các cơ sở sản xuất - kinh doanh lớn, nhỏ. Bên cạnh sự đánh
giá đúng, Đảng ta còn có chính sách tiền lương và các khoản phụ cấp khác
nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công nhân, viên chức trong
hoàn cảnh khó khǎn.
Tuy là bước đầu, những chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện
trong những nǎm qua đã ổn định một bước tình hình kinh tế - xã hội trong
hoàn cảnh thế giới cũng như ở nước ta có nhiều chuyển biến phức tạp.
Những tiến bộ về mặt phát triển kinh tế sau Đại hội lần thứ VI đã làm
cho niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố một bước.
3. Kết hợp củng cố liên minh công, nông và trí thức với củng cố các loại hình hợp tác xã và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hợp tác xã của những người tiểu nông cá thể là hình thức xã hội hoá sản
xuất được diễn ra trong mọi chế độ xã hội có sự phát triển kinh tế hàng
hoá. Theo Lê-nin, chế độ hợp tác xã trong điều kiện Đảng cộng sản lãnh
đạo tất yếu phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. "Chế độ của những xã
viên hợp tác xã vǎn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa". Do đó, chế độ hợp
tác xã vǎn minh đòi hỏi tính tự nguyện và tính lợi ích kinh tế cao. Chế
độ hợp tác xã vǎn minh hoàn toàn đối lập với cơ chế quản lý mệnh lệnh,
quan liêu hành chính... Phong trào hợp tác xã phát triển được khi có cơ
chế quản lý phù hợp, bảo đảm cho bất cứ người tiểu nông, tiểu chủ, chủ
nông trại nào cũng có thể tham gia.
Vì những sai lầm, khuyết điểm về cải tạo nông nghiệp và hợp tác hoá mà
nhiều nǎm trước đây sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, đời sống nhân dân
gặp nhiều khó khǎn, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Hiện nay, phần đông nông dân nước ta đi vào con đường làm ǎn hợp tác với
những trình độ và hình thức khác nhau và "khoán hộ" đã trở thành "biện
pháp" thích hợp. Vì vậy, củng cố hợp tác xã phải tôn trọng bước đi tuần
tự: từ khoán hộ đến hợp tác xã. Quá trình này có những bước tuần tự như
chuyển người nông dân, từ người nông dân tự do sản xuất tự cung, tự cấp
thành người nông dân sản xuất hàng hoá; từ người nông dân sản xuất hàng
hoá đến tổ chức của những hộ nông dân kinh doanh nông nghiệp hàng hoá,
v.v..
Trong phong trào hợp tác cần lấy việc xây dựng và mở rộng hợp tác xã mua
bán, dịch vụ, giải quyết tốt khâu lưu thông, tạo ra bước phát triển
trong sản xuất hàng hoá nông sản; đồng thời tổ chức hợp tác từng khâu,
từng phần của quá trình sản xuất xét ra có lợi và có lãi hơn so với sản
xuất cá thể và thủ công để thu hút, liên kết với công nhân và trí thức,
giai cấp nông dân mới có điều kiện để cải tiến kỹ thuật, nâng cao giá
trị hàng hoá, có lợi cho cả các bên.
Liên kết nông nghiệp với công nghiệp, nông dân với công nhân và trí thức
trong từng bước đi của hợp tác hoá chỉ có như thế mới đưa nông dân thật
sự đi vào quỹ đạo sản xuất hàng hoá. Bằng con đường ấy, công nhân và
trí thức mới có điều kiện phục vụ nông dân, nông nghiệp, thâm nhập vào
nông thôn, càng có cơ sở để củng cố thêm mối quan hệ ba bên cùng có lợi
giữa công nhân, trí thức với nông dân.
Từng bước quốc tế hoá nền kinh tế. Thiết lập mối quan hệ giữa hợp tác xã
sản xuất với hợp tác xã mua bán và xuất nhập khẩu, qua đó mà liên
doanh, liên kết quốc tế.
Qua quốc tế hoá sản xuất hàng hoá nông sản, gắn thị trường nông thôn với
thị trường thành phố, gắn thị trường dân tộc với thị trường quốc tế.
Trên cơ sở những vấn đề trên mà củng cố các loại hình hợp tác xã phù
hợp, vừa thu hút nông dân vào các hình thức sản xuất, kinh doanh; vừa
thực hiện việc phân công lao động tại chỗ, kết hợp với phân công lao
động quốc tế, làm cho nông dân xích lại gần với công nhân và trí thức về
phương diện kết cấu giai cấp xã hội.
4. Nâng cao nǎng lực lãnh đạo của Đảng, xác định vai trò tổ chức quản
lý của Nhà nước, thực hiện những nội dung và mối quan hệ liên minh cụ
thể với nông dân và trí thức.
Đảng ta ra đời trong một nước nông nghiệp lạc hậu. Phần lớn cán bộ, đảng
viên xuất thân từ thành phần không phải công nhân, do đó còn chịu ảnh
hưởng tư tưởng phong kiến, nông dân và tiểu tư sản thể hiện trong ý
thức, trong quan điểm kinh tế và trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Thực tế mấy chục nǎm qua cho thấy, trong mối quan hệ giữa Nhà nước và
nông dân diễn ra những việc làm trái với chủ trương, đường lối của Đảng.
Hơn nữa, trong việc vạch ra đường lối, có thời kỳ Đảng ta không chú ý
nghiên cứu, vận dụng các quy luật kinh tế - xã hội dẫn đến những hậu quả
xấu cho sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng và hành động sai trái trên, xét cho cùng đều do cán bộ,
đảng viên không nắm vững lý luận Mác - Lênin, thiếu kiến thức vǎn hoá,
khoa học và nǎng lực công tác; hoặc chưa đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
để giải quyết vấn đề nông dân và trí thức phù hợp với yêu cầu của giai
đoạn cách mạng mới.
Ở giai đoạn Đảng lãnh đạo chính quyền thì ngoài việc củng cố liên minh
này cùng với nâng cao nǎng lực lãnh đạo của toàn Đảng, điều then chốt là
phải xác định vai trò Nhà nước- người thay mặt Đảng tổ chức, chỉ đạo
những mối quan hệ liên minh trực tiếp với nông dân và trí thức về mặt vĩ
mô. Bởi vì mọi nghị quyết của Đảng đều phải được Nhà nước thể chế hoá
thành chính sách, pháp luật, pháp lệnh. Không có những chính sách, pháp
luật, pháp lệnh đúng thì không thể có sự thúc đẩy phong trào sản xuất
kinh doanh làm cho dân giàu, nước mạnh.
Điều cần nghiêm túc thực hiện là giữa Trung ương Đảng và Chính phủ cần
phân định rõ chức nǎng lãnh đạo và quản lý, điều hành. Đảng tránh bao
biện làm thay. Chỉ có thông qua pháp luật, được nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện, Nhà nước mới chống được bệnh tham nhũng, hối lộ, ức
hiếp nhân dân của những người khoác áo cán bộ, đảng viên, gây mất uy
tín, giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Chính phủ là cơ quan
thay mặt Đảng, thay mặt nhân dân, trước hết là nông dân, công nhân và
trí thức mà điều hành việc nước, chǎm lo mọi mặt đời sống của nhân dân
và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi". Tất cả mọi chủ trương, chính sách của Đảng là nhằm không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân nói chung, nông dân nói riêng.
Nếu thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc chống đế quốc,
chống phong kiến, thực hiện khẩu hiệu "độc lập dân tộc, người cày có
ruộng" không thể tách rời sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và động lực cách mạng hùng hậu là khối liên minh công, nông và trí
thức, nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất thì thắng lợi của công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu không thể tách rời ba nhân tố quan trọng có tính quyết định
nói trên.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét