Sự thực không phải như vậy. Bởi, sự vận
động tất yếu của lịch sử thế giới một phần tư thế kỷ qua chính là bằng
chứng chân thực để phủ nhận những tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội hiện
thực vẫn luôn tồn tại, phát triển trong cải cách, đổi mới; giai cấp công
nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng và khẳng
định vai trò sứ mệnh lịch sử của họ.
1. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là công lao của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) cùng với phong trào cách mạng thế giới thế kỷ XX đã chứng minh rõ điều đó
Là những thiên tài sáng tạo vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và lao động quốc tế, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin luôn hướng mọi hoạt động nghiên cứu khoa học của mình vào việc xây dựng hệ thống lý luận sâu sắc về đời sống xã hội với 3 bộ phận cơ bản, là triết học mác-xít, kinh tế - chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết mới mang tên C. Mác ra đời đã kịp thời giải đáp những câu hỏi lớn mà thời đại đặt ra nhưng chưa được giải đáp. Từ kết quả nghiên cứu chung về lịch sử xã hội, các ông đã vận dụng vào khảo cứu xã hội tư bản để đi đến kết luận về sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, gắn với việc luận giải sâu sắc vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp công nhân, nhân dân lao động được giải phóng, vươn lên làm chủ vận mệnh của mình.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen xuất phát từ những phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản để đi đến kết luận: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"(1). Chính vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng hiện đại thì càng làm cho giai cấp công nhân có số lượng, chất lượng ngày càng cao với những phẩm chất ưu việt, như tiên tiến nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, luôn có tinh thần đoàn kết, thống nhất và cách mạng triệt để nhất. Do có đầy đủ những phẩm chất ưu việt đó, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp duy nhất trong xã hội tư bản có đủ khả năng đảm đương vai trò sứ mệnh lịch sử vẻ vang là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã nhấn mạnh rằng, cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, "giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản"(2).
Cả về lý luận và thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một giai cấp cách mạng muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội, phải thông qua bộ phận “hạt nhân” lãnh đạo, “lãnh tụ” chính trị của mình. Giai cấp công nhân muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, nhất thiết phải tổ chức ra được chính đảng cộng sản thực sự là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, trung thành và đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào đấu tranh của giai cấp, của dân tộc, có lý luận khoa học dẫn đường.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"(3). Có lý luận tiền phong hướng dẫn, giai cấp công nhân ở mỗi nước và trên thế giới đã từng bước đoàn kết lại, thông qua con đường cách mạng để giành lấy chính quyền. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là có tính chất quốc tế, nhưng giai cấp công nhân mỗi nước phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng trước hết ở dân tộc mình, "phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu"(4). Đó chính là các nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động mỗi nước phải thực hiện sau khi đã giành được chính quyền, từng bước xây dựng chế độ xã hội mới.
Đảng là hạt nhân lãnh đạo phong trào, các đảng cộng sản trên thế giới luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cộng sản, ý thức sâu sắc địa vị, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn phấn đấu hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Đảng của giai cấp công nhân đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển cuộc đấu tranh từ tự phát sang tự giác. Trong đó, lý luận cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt. V.I. Lê-nin đã nhấn mạnh rằng, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chỉ khi đảng có được lý luận tiền phong định hướng thì mới có thể làm trọn vai trò chiến sĩ tiền phong.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" ra đời, giai cấp công nhân có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, tập hợp lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để giành các quyền lợi cơ bản của mình. Sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua kết quả hoạt động của "Hội liên hiệp lao động quốc tế" - Quốc tế I (1861 - 1872); "Hội quốc tế xã hội chủ nghĩa" - Quốc tế II với sự ra đời của các đảng dân chủ - xã hội ở các nước tư bản từ sau những năm 1889 đã đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ngày càng tự giác, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, đồng thời đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày càng phát triển theo chiều sâu. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là "bóng ma cộng sản" ám ảnh châu Âu, đến nay, đã trở thành hiện thực sinh động, khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân đứng lên tự giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại, mở ra trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Công xã Pa-ri là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên, nổ ra ở Thủ đô Pa-ri, Pháp (ngày 18-3-1871), mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng được coi là bất diệt, bởi, đã góp phần làm sâu sắc lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Là người kế tục xuất sắc những tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và binh lính Nga, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, hiện thực hóa lý tưởng cách mạng cao cả của chủ nghĩa Mác, đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên tự giải phóng của giai cấp công nhân giành lại những giá trị chân chính của con người. Sự ra đời và không ngừng lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực và cao trào cách mạng ở thế kỷ XX đã chứng minh rõ điều đó.
2. Những bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bản vào đầu thập niên 1970, thế kỷ XX do tận dụng được thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ ứng dụng vào phát triển sản xuất không làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay
Những khuyết tật, sai lầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực tích tụ nhiều năm do chậm đổi mới, đã dần lâm vào khủng hoảng toàn diện, kéo theo sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới. Lợi dụng những biến đổi phức tạp ấy, các học giả tư sản, cùng nhiều phần tử cơ hội, xét lại khác đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc bức tranh thế giới, rằng giai cấp công nhân hiện đại trong nền kinh tế trí thức không còn vai trò sứ mệnh lịch sử nữa. Họ cố tình xuyên tạc rằng, ở thời đại văn minh tin học, thuyết giá trị lao động đã bị thuyết giá trị tri thức thay thế; lý luận giá trị thặng dư đã bị thay thế bởi lý luận coi lợi nhuận là thù lao cho việc tổ chức quản lý sản xuất; sự can thiệp của nhà nước đã triệt để loại bỏ được tình trạng sản xuất vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế; sự hình thành, phát triển giai cấp trung lưu mới sẽ xóa bỏ được sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản...
Nhưng sự thực không phải như vậy. Vai trò của khoa học - kỹ thuật ngày càng được nâng cao trong sản xuất không những không hề phủ nhận thuyết giá trị lao động của C. Mác, mà trái lại là chứng minh rõ hơn tính đúng đắn của thuyết đó. Bản thân nghiên cứu khoa học là một loại lao động đặc biệt, lao động trí óc, sáng tạo giá trị lao động khoa học mới. Các thiết bị kỹ thuật dù là tiên tiến nhất cũng không tạo ra giá trị, mà chỉ là sự dịch chuyển giá trị. Thuyết giá trị lao động bao gồm cả sự sáng tạo giá trị của lao động trí óc là đúng đắn. Giá trị thặng dư vẫn tồn tại trong xã hội tư bản hiện đại. Không có bộ phận này thì không có lợi nhuận. Như vậy, chỉ có lao động làm thuê (cả lao động trí óc, khoa học) mới tạo ra được giá trị thặng dư, chứ không phải là bản thân khoa học - kỹ thuật và các thiết bị tiên tiến, sẽ góp phần sáng tạo ra những giá trị cốt lõi đó.
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, sự xuất hiện các công ty xuyên quốc gia là bước điều chỉnh quan trọng làm tăng tính xã hội của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước tư bản phát triển. Nhưng điều đó không thể loại bỏ được mâu thuẫn cơ bản vốn có giữa tính chất xã hội hóa sản xuất với việc chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (dù hình thức mới của nó là chế độ cổ phần), mà chỉ là mở rộng mâu thuẫn cơ bản đó ra phạm vi thế giới. Mâu thuẫn kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngay từ đầu được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có tính chất đối kháng, nhưng mức độ biểu hiện cũng rất khác nhau tùy thuộc vào mức độ và quy mô bóc lột của giới chủ tư bản đối với giai cấp công nhân.
Trải qua thời gian, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử xã hội đã có nhiều thay đổi, một số luận điểm cụ thể mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đề cập, đến nay có thể không còn phù hợp, cần thay đổi hoặc bổ sung mới. V.I. Lê-nin đã căn dặn: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"(5). Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa phát triển.
V.I. Lê-nin chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của những người mác-xít là phải tổ chức một chính đảng của giai cấp công nhân tập trung và độc lập, vũ trang bằng lý luận cách mạng. Không có một chính đảng như thế thì không thể kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân, làm cho phong trào đi theo hướng xã hội chủ nghĩa. Bản thân giai cấp công nhân không có khả năng tự mình xây dựng được ý thức xã hội chủ nghĩa, tức là ý thức về lợi ích sống còn của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp vô sản tự mình chỉ có thể xây dựng nên ý thức công đoàn chủ nghĩa. Muốn xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa, phải có tri thức khoa học, mà giai cấp công nhân, khi còn là một giai cấp bị áp bức, thì không có thì giờ, cũng không có phương tiện để làm việc đó. Ý thức xã hội chủ nghĩa là do những nhà trí thức cách mạng xây dựng nên. Nhưng nó chỉ có ý nghĩa đầy đủ và trở thành một sức mạnh khi nó được truyền bá trong giai cấp công nhân, làm cho họ ý thức được địa vị của mình, tự giác đấu tranh cách mạng cho chủ nghĩa xã hội.
Nhưng do bản chất bóc lột giá trị thặng dư của người lao động làm thuê trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng khắc nghiệt; và hậu quả tất yếu của tình trạng đó là sự phân hóa giai cấp, làm cho giai cấp vô sản ngày càng bị bần cùng hóa cùng với mỗi bước phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản cũng bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời để chống lại “sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn” của giai cấp tư sản.
3. Hiện nay, thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng học thuyết C. Mác vẫn sáng ngời, khẳng định giá trị của nó trong nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại
Để duy trì sự tồn tại trong cuộc đối đầu với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản phát triển có những điều chỉnh tích cực cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Về lực lượng sản xuất, các nước tư bản phát triển triệt để tận dụng những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đưa sản xuất phát triển vào chiều sâu, tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao. Kinh tế tri thức ra đời với sự tăng lên rất nhanh của cải vật chất, đã đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng. Theo đó, đời sống của người công nhân với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu cũng được quan tâm, nâng cao, phúc lợi xã hội được tăng cường.
Về quan hệ sản xuất, vẫn bảo tồn chế độ sở hữu tư nhân tư bản về nguyên tắc, còn trong hình thức tổ chức đã có những bước điều chỉnh mở rộng các hình thức sở hữu tư bản như mở rộng chế độ cổ phần, bán cổ phiếu có giá trị nhỏ cho người lao động. Hiện tượng này đã được các nhà lý luận tư sản tô vẽ là "chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhân đạo", người công nhân có cổ phần trở thành hữu sản. Trên thực tế, mặc dù đời sống công nhân các nước phát triển, có thể ít nhiều được cải thiện nhưng địa vị kinh tế của họ vẫn không vì thế mà thay đổi; quyền chi phối xí nghiệp vẫn do các chủ tư bản chiếm đa số cổ phần điều hành và bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản vẫn không hề thay đổi.
Đặc biệt, với quá trình toàn cầu hóa hiện nay, triệt để tận dụng lợi thế cạnh tranh mang lại nên sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản lại trở nên thậm tệ đối với các nước chậm phát triển, đang phát triển. Những biến đổi nhanh chóng đó là nguồn gốc sâu xa làm nảy sinh và duy trì mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản hiện nay - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không mất đi mà càng gay gắt hơn. Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Biểu hiện của mâu thuẫn ấy về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, vô sản và tư sản không hề mất đi, mà vẫn tồn tại và mở rộng phạm vi ra toàn cầu. Nhất là khi khoảng cách chênh lệch mức sống giữa người giàu và người nghèo ở các nước tư bản phát triển ngày càng tăng, hố sâu ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng lớn, nhiều nước nghèo không có khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài. Hơn một tỷ người trên thế giới hiện nay, đang phải sống dưới mức nghèo khổ. Thiếu nước sạch, điều kiện y tế, bệnh dịch, cùng nhiều tệ nạn xã hội khác như bạo lực, ma túy, mại dâm… ngày càng gia tăng. Đó là những “vết loét” không thể tự khắc phục được của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Với niềm tin vững chắc vào tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, Đảng ta đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"(6). Đối với cách mạng Việt Nam hiện nay, kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là thể hiện tập trung nhất sự quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng cộng sản cao cả của giai cấp công nhân.
Nhìn lại chặng đường hơn 80 năm, kể từ ngày Đảng ta ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, trưởng thành. Nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản, nắm giữ những lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền sản xuất, là lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, cả nước có khoảng 10 triệu công nhân, tạo ra 60% tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách cả nước. Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; Công đoàn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Giải pháp mang tính chiến lược xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh phải gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã hội. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân; bồi dưỡng đội ngũ công nhân trẻ có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, bước đầu hình thành đội ngũ công nhân trí thức ngang tầm khu vực và quốc tế, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đoàn kết và hợp tác quốc tế, trở thành lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân cả nước. Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, góp phần xứng đáng vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế./.
-------------------------------------
1. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là công lao của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) cùng với phong trào cách mạng thế giới thế kỷ XX đã chứng minh rõ điều đó
Là những thiên tài sáng tạo vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và lao động quốc tế, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin luôn hướng mọi hoạt động nghiên cứu khoa học của mình vào việc xây dựng hệ thống lý luận sâu sắc về đời sống xã hội với 3 bộ phận cơ bản, là triết học mác-xít, kinh tế - chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết mới mang tên C. Mác ra đời đã kịp thời giải đáp những câu hỏi lớn mà thời đại đặt ra nhưng chưa được giải đáp. Từ kết quả nghiên cứu chung về lịch sử xã hội, các ông đã vận dụng vào khảo cứu xã hội tư bản để đi đến kết luận về sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, gắn với việc luận giải sâu sắc vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp công nhân, nhân dân lao động được giải phóng, vươn lên làm chủ vận mệnh của mình.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen xuất phát từ những phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản để đi đến kết luận: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"(1). Chính vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng hiện đại thì càng làm cho giai cấp công nhân có số lượng, chất lượng ngày càng cao với những phẩm chất ưu việt, như tiên tiến nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, luôn có tinh thần đoàn kết, thống nhất và cách mạng triệt để nhất. Do có đầy đủ những phẩm chất ưu việt đó, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp duy nhất trong xã hội tư bản có đủ khả năng đảm đương vai trò sứ mệnh lịch sử vẻ vang là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã nhấn mạnh rằng, cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, "giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản"(2).
Cả về lý luận và thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một giai cấp cách mạng muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội, phải thông qua bộ phận “hạt nhân” lãnh đạo, “lãnh tụ” chính trị của mình. Giai cấp công nhân muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, nhất thiết phải tổ chức ra được chính đảng cộng sản thực sự là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, trung thành và đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào đấu tranh của giai cấp, của dân tộc, có lý luận khoa học dẫn đường.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"(3). Có lý luận tiền phong hướng dẫn, giai cấp công nhân ở mỗi nước và trên thế giới đã từng bước đoàn kết lại, thông qua con đường cách mạng để giành lấy chính quyền. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là có tính chất quốc tế, nhưng giai cấp công nhân mỗi nước phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng trước hết ở dân tộc mình, "phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu"(4). Đó chính là các nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động mỗi nước phải thực hiện sau khi đã giành được chính quyền, từng bước xây dựng chế độ xã hội mới.
Đảng là hạt nhân lãnh đạo phong trào, các đảng cộng sản trên thế giới luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cộng sản, ý thức sâu sắc địa vị, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn phấn đấu hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Đảng của giai cấp công nhân đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển cuộc đấu tranh từ tự phát sang tự giác. Trong đó, lý luận cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt. V.I. Lê-nin đã nhấn mạnh rằng, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chỉ khi đảng có được lý luận tiền phong định hướng thì mới có thể làm trọn vai trò chiến sĩ tiền phong.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" ra đời, giai cấp công nhân có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, tập hợp lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để giành các quyền lợi cơ bản của mình. Sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua kết quả hoạt động của "Hội liên hiệp lao động quốc tế" - Quốc tế I (1861 - 1872); "Hội quốc tế xã hội chủ nghĩa" - Quốc tế II với sự ra đời của các đảng dân chủ - xã hội ở các nước tư bản từ sau những năm 1889 đã đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ngày càng tự giác, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, đồng thời đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày càng phát triển theo chiều sâu. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là "bóng ma cộng sản" ám ảnh châu Âu, đến nay, đã trở thành hiện thực sinh động, khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân đứng lên tự giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại, mở ra trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Công xã Pa-ri là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên, nổ ra ở Thủ đô Pa-ri, Pháp (ngày 18-3-1871), mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng được coi là bất diệt, bởi, đã góp phần làm sâu sắc lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Là người kế tục xuất sắc những tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và binh lính Nga, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, hiện thực hóa lý tưởng cách mạng cao cả của chủ nghĩa Mác, đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên tự giải phóng của giai cấp công nhân giành lại những giá trị chân chính của con người. Sự ra đời và không ngừng lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực và cao trào cách mạng ở thế kỷ XX đã chứng minh rõ điều đó.
2. Những bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bản vào đầu thập niên 1970, thế kỷ XX do tận dụng được thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ ứng dụng vào phát triển sản xuất không làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay
Những khuyết tật, sai lầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực tích tụ nhiều năm do chậm đổi mới, đã dần lâm vào khủng hoảng toàn diện, kéo theo sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới. Lợi dụng những biến đổi phức tạp ấy, các học giả tư sản, cùng nhiều phần tử cơ hội, xét lại khác đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc bức tranh thế giới, rằng giai cấp công nhân hiện đại trong nền kinh tế trí thức không còn vai trò sứ mệnh lịch sử nữa. Họ cố tình xuyên tạc rằng, ở thời đại văn minh tin học, thuyết giá trị lao động đã bị thuyết giá trị tri thức thay thế; lý luận giá trị thặng dư đã bị thay thế bởi lý luận coi lợi nhuận là thù lao cho việc tổ chức quản lý sản xuất; sự can thiệp của nhà nước đã triệt để loại bỏ được tình trạng sản xuất vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế; sự hình thành, phát triển giai cấp trung lưu mới sẽ xóa bỏ được sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản...
Nhưng sự thực không phải như vậy. Vai trò của khoa học - kỹ thuật ngày càng được nâng cao trong sản xuất không những không hề phủ nhận thuyết giá trị lao động của C. Mác, mà trái lại là chứng minh rõ hơn tính đúng đắn của thuyết đó. Bản thân nghiên cứu khoa học là một loại lao động đặc biệt, lao động trí óc, sáng tạo giá trị lao động khoa học mới. Các thiết bị kỹ thuật dù là tiên tiến nhất cũng không tạo ra giá trị, mà chỉ là sự dịch chuyển giá trị. Thuyết giá trị lao động bao gồm cả sự sáng tạo giá trị của lao động trí óc là đúng đắn. Giá trị thặng dư vẫn tồn tại trong xã hội tư bản hiện đại. Không có bộ phận này thì không có lợi nhuận. Như vậy, chỉ có lao động làm thuê (cả lao động trí óc, khoa học) mới tạo ra được giá trị thặng dư, chứ không phải là bản thân khoa học - kỹ thuật và các thiết bị tiên tiến, sẽ góp phần sáng tạo ra những giá trị cốt lõi đó.
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, sự xuất hiện các công ty xuyên quốc gia là bước điều chỉnh quan trọng làm tăng tính xã hội của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước tư bản phát triển. Nhưng điều đó không thể loại bỏ được mâu thuẫn cơ bản vốn có giữa tính chất xã hội hóa sản xuất với việc chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (dù hình thức mới của nó là chế độ cổ phần), mà chỉ là mở rộng mâu thuẫn cơ bản đó ra phạm vi thế giới. Mâu thuẫn kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngay từ đầu được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có tính chất đối kháng, nhưng mức độ biểu hiện cũng rất khác nhau tùy thuộc vào mức độ và quy mô bóc lột của giới chủ tư bản đối với giai cấp công nhân.
Trải qua thời gian, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử xã hội đã có nhiều thay đổi, một số luận điểm cụ thể mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đề cập, đến nay có thể không còn phù hợp, cần thay đổi hoặc bổ sung mới. V.I. Lê-nin đã căn dặn: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"(5). Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả lý luận và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa phát triển.
V.I. Lê-nin chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của những người mác-xít là phải tổ chức một chính đảng của giai cấp công nhân tập trung và độc lập, vũ trang bằng lý luận cách mạng. Không có một chính đảng như thế thì không thể kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân, làm cho phong trào đi theo hướng xã hội chủ nghĩa. Bản thân giai cấp công nhân không có khả năng tự mình xây dựng được ý thức xã hội chủ nghĩa, tức là ý thức về lợi ích sống còn của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp vô sản tự mình chỉ có thể xây dựng nên ý thức công đoàn chủ nghĩa. Muốn xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa, phải có tri thức khoa học, mà giai cấp công nhân, khi còn là một giai cấp bị áp bức, thì không có thì giờ, cũng không có phương tiện để làm việc đó. Ý thức xã hội chủ nghĩa là do những nhà trí thức cách mạng xây dựng nên. Nhưng nó chỉ có ý nghĩa đầy đủ và trở thành một sức mạnh khi nó được truyền bá trong giai cấp công nhân, làm cho họ ý thức được địa vị của mình, tự giác đấu tranh cách mạng cho chủ nghĩa xã hội.
Nhưng do bản chất bóc lột giá trị thặng dư của người lao động làm thuê trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng khắc nghiệt; và hậu quả tất yếu của tình trạng đó là sự phân hóa giai cấp, làm cho giai cấp vô sản ngày càng bị bần cùng hóa cùng với mỗi bước phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản cũng bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời để chống lại “sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn” của giai cấp tư sản.
3. Hiện nay, thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng học thuyết C. Mác vẫn sáng ngời, khẳng định giá trị của nó trong nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại
Để duy trì sự tồn tại trong cuộc đối đầu với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản phát triển có những điều chỉnh tích cực cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Về lực lượng sản xuất, các nước tư bản phát triển triệt để tận dụng những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đưa sản xuất phát triển vào chiều sâu, tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao. Kinh tế tri thức ra đời với sự tăng lên rất nhanh của cải vật chất, đã đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng. Theo đó, đời sống của người công nhân với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu cũng được quan tâm, nâng cao, phúc lợi xã hội được tăng cường.
Về quan hệ sản xuất, vẫn bảo tồn chế độ sở hữu tư nhân tư bản về nguyên tắc, còn trong hình thức tổ chức đã có những bước điều chỉnh mở rộng các hình thức sở hữu tư bản như mở rộng chế độ cổ phần, bán cổ phiếu có giá trị nhỏ cho người lao động. Hiện tượng này đã được các nhà lý luận tư sản tô vẽ là "chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhân đạo", người công nhân có cổ phần trở thành hữu sản. Trên thực tế, mặc dù đời sống công nhân các nước phát triển, có thể ít nhiều được cải thiện nhưng địa vị kinh tế của họ vẫn không vì thế mà thay đổi; quyền chi phối xí nghiệp vẫn do các chủ tư bản chiếm đa số cổ phần điều hành và bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản vẫn không hề thay đổi.
Đặc biệt, với quá trình toàn cầu hóa hiện nay, triệt để tận dụng lợi thế cạnh tranh mang lại nên sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản lại trở nên thậm tệ đối với các nước chậm phát triển, đang phát triển. Những biến đổi nhanh chóng đó là nguồn gốc sâu xa làm nảy sinh và duy trì mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản hiện nay - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không mất đi mà càng gay gắt hơn. Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Biểu hiện của mâu thuẫn ấy về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, vô sản và tư sản không hề mất đi, mà vẫn tồn tại và mở rộng phạm vi ra toàn cầu. Nhất là khi khoảng cách chênh lệch mức sống giữa người giàu và người nghèo ở các nước tư bản phát triển ngày càng tăng, hố sâu ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng lớn, nhiều nước nghèo không có khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài. Hơn một tỷ người trên thế giới hiện nay, đang phải sống dưới mức nghèo khổ. Thiếu nước sạch, điều kiện y tế, bệnh dịch, cùng nhiều tệ nạn xã hội khác như bạo lực, ma túy, mại dâm… ngày càng gia tăng. Đó là những “vết loét” không thể tự khắc phục được của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Với niềm tin vững chắc vào tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, Đảng ta đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"(6). Đối với cách mạng Việt Nam hiện nay, kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là thể hiện tập trung nhất sự quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng cộng sản cao cả của giai cấp công nhân.
Nhìn lại chặng đường hơn 80 năm, kể từ ngày Đảng ta ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, trưởng thành. Nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản, nắm giữ những lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền sản xuất, là lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, cả nước có khoảng 10 triệu công nhân, tạo ra 60% tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách cả nước. Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; Công đoàn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Giải pháp mang tính chiến lược xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh phải gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã hội. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân; bồi dưỡng đội ngũ công nhân trẻ có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, bước đầu hình thành đội ngũ công nhân trí thức ngang tầm khu vực và quốc tế, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đoàn kết và hợp tác quốc tế, trở thành lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân cả nước. Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, góp phần xứng đáng vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế./.
-------------------------------------
(1) C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 4, tr. 610
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 605
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 614, 615
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 623, 624
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1974, t. 4, tr. 232
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 14
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 605
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 614, 615
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: sđd, t. 4, tr. 623, 624
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1974, t. 4, tr. 232
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét